Chuyện về một trong những người Nghệ đầu tiên được phong danh hiệu Nghệ sỹ nhân dân

(Baonghean) - “Tôi đã mở mắt chào đời giữa thành phố Vinh… Thuở bé, tôi chưa hiểu biết gì về cuộc sống, nhưng đã chịu ảnh hưởng ngay về nghệ thuật tuồng”. Đó là những dòng đầu tiên trong cuốn “Đời tôi trên sân khấu tuồng”, mà tôi, bằng một cơ duyên nào đó, đã có nó trong tay và đọc không thể dứt ra được.
Nghệ sỹ nhân dân Lê Bá Tùng.
Nghệ sỹ nhân dân Lê Bá Tùng.

Cuốn sách xuất bản năm 1977 của Nhà xuất bản Văn hóa ghi tên tác giả là Lê Bá Tùng (kể) và Thành Đăng Khánh (ghi). Không mấy ai biết rằng, Lê Bá Tùng -  người đã kể lại đời mình qua cuốn sách ấy chính là nghệ sỹ tuồng Lê Bá Tùng, một trong những người Nghệ đầu tiên được phong danh hiệu cao quý: Nghệ sỹ nhân dân (NSND).

Khi khép lại những trang cuối cùng của cuốn sách cũ kỹ ấy, tôi thực sự sửng sốt với danh sách gần 90 vai diễn trên sân khấu tuồng trong suốt cuộc đời nghệ sỹ Lê Bá Tùng, được ông nhớ tới từng chi tiết. Có cảm giác như NSND Lê Bá Tùng đã sống với những vai diễn như những chặng đời thực của mình. Hay nói cách khác, ông đã yêu, đã hóa thân vào từng vai diễn ấy để sống cuộc đời thực của mình.
Những vai diễn ấy cũng chính là lý lịch cuộc đời ông. Vai kép con Lý Nguyên Bá trong vở “Thí võ Lý Nguyên Bá” diễn lần đầu ở Vinh tháng 2 năm 1920 trong gánh hát Vĩnh Tường Long của ông Nguyễn Văn Liễn; vai kép con Cao Lủng trong vở “Cao Lủng phá cửu cá hỏa xa”, diễn lần đầu ở Thanh Hóa tháng 5 năm 1922, gánh hát của ông B.H; vai kép nhỡ Thạch Sanh trong vở “Thạch Sanh” diễn lần đầu tại Hà Tĩnh tháng 10 năm 1922, gánh của ông B.G… Cứ thế, ngày tháng cuộc đời ruổi rong cùng những gánh hát, những vai diễn trên khắp mọi miền… 
Có thể nói rằng, khi sinh ra, cuộc đời đã cho ông mối duyên nợ với tuồng. Lê Bá Tùng sinh năm 1899 tại phố Đệ Tam, thị xã Vinh, nay là thành phố Vinh. Nhà ông ở gần rạp tuồng (cạnh chùa Lề). Đây là rạp tuồng duy nhất của Vinh thuở đó. Trong ký ức Lê Bá Tùng, rạp tuồng ấy lúc đầu lợp tranh, che phên nứa, có khoảng 200 chỗ ngồi. Sau này được sửa sang lại khá đàng hoàng, có mái ngói, tường gạch, bục sân khấu, có phòng nghỉ, chứa được trên 400 người. Rạp trở thành nơi biểu diễn của các gánh hát lưu động 3 miền. Đêm đêm, cậu bé Tùng chứng kiến đoàn người rậm rịch kéo đến rạp tuồng sau tiếng trống điểm ban. 
Nghệ sỹ tuồng Lê Bá Tùng trong vai lão Tạ trong tuồng “Tam nữ đồ vương”
Nghệ sỹ tuồng Lê Bá Tùng trong vai lão Tạ trong tuồng “Tam nữ đồ vương”

Trong hồi ức của Lê Bá Tùng, ông còn nhắc tới bộ tranh “Ngũ hổ bình Liêu” với các nhân vật Địch Mẫu, Lưu Khánh, công chúa Trại Ba và Bàng Hồng. Ngày mới mua tranh, mẹ ông đã chỉ vào bộ tranh này mà kể cho ông nghe tích truyện của vở tuồng nọ.

Ông yêu mến tích truyện, yêu mến bộ tranh đến độ tâm tưởng ông lúc nào cũng nghĩ tới nó, và một ngày kia, ông cất lời xin mẹ bộ tranh làm “của riêng”, gìn giữ nó như một báu vật. Ngày mới đi học, Lê Bá Tùng chỉ chuyên tâm cặm cụi với bộ tranh của mình. Ông tô những nhân vật của mình bằng màu sắc mà ông yêu - ghét.

Lê Bá Tùng cũng thường lén lút bày trò hò hát theo lối một gánh hát ở trong lớp. Cứ tối đến, người ta lại thấy cậu bé Tùng lân la ở các cổng rạp, vờ nhận là con cháu các bà, các chị vào xem hát chui. Sau khi giở trò này không qua mặt được gác cổng thì ông giở mẹo chui rào, vượt tường, tiến thẳng tới phòng hóa trang, làm thân với các diễn viên bằng cách làm theo yêu cầu nhờ vả của họ, khi thì mua diêm, cau trầu hay lấy nước uống… Yêu mến tài nghệ của đào kép, thích lối sống hồn nhiên và thoải mái của họ, nên cậu bé mơ ước một ngày kia, khi lớn lên cũng được lên sân khấu diễn tuồng như họ…
Ham tuồng, mê mẩn những vai diễn, dưới lớp son phấn hóa trang kia, ông như thấy người diễn viên có một thứ quyền năng bí ẩn. Chỉ là cái bục sân khấu nho nhỏ, những bộ phục trang xúng xính, vài động tác múa…, vậy mà khiến người ta khóc, cười, nức nở, xót xa… Lê Bá Tùng không biết rằng, mình đã bắt đầu dấn thân vào cái nghiệp “xướng ca” vĩnh viễn đóng đinh vào cuộc đời mình.
Năm 1912, khi Lê Bá Tùng 15 tuổi, cha ông mất, mẹ gửi lại ông cho một người bạn thân của cha để ra Bắc tìm kế sinh nhai. Ông được người này sắp xếp làm nghề kéo quạt cho một tên sếp ga. Tiền công cũng khá, ông dùng khoản này vào việc thuê sách đọc và đi xem tuồng. Đời đang yên ả, ông được tin có một ban tuồng trẻ con thường diễn tuồng ở vườn hoa ngã tư. Thế là ông quyết định bỏ nghề quạt mà đi theo ban tuồng ấy…
Những năm tháng tiếp theo của Lê Bá Tùng gắn liền với tên tuổi các ông thầy và gánh hát: gánh Vĩnh Tường Long của ông bầu Nguyễn Văn Liên, gánh Phượng Lâu, gánh Thái Mộng Đài, gánh Bang Hồ, gánh Tụ Châu, gánh Viên Quảng, gánh Thọ Vinh Đài... Ngày ấy, những vở tuồng ngoài diễn tích cổ, còn thể hiện cả tinh thần thời đại trong từng câu nói, phong cách nhân vật. Những yêu, ghét, oán hờn, nợ nước, thù nhà đều được người diễn viên đem lên sân khấu. Lê Bá Tùng cảm nhận và yêu tuồng hơn, bởi ở đó, ông có thể diễn rất thật về cuộc đời này.
Nghệ sỹ tuồng Lê Bá Tùng vai Đào Lệnh Công trong tuồng “Đào Phi Phụng”.
Nghệ sỹ tuồng Lê Bá Tùng vai Đào Lệnh Công trong tuồng “Đào Phi Phụng”.

Trong cuốn hồi ký, có cảm giác như Lê Bá Tùng đã nhớ đến gan ruột từng vai diễn, từng động tác, từng xúc cảm của những câu nói, điệu vung tay. Cố nhà báo Lê Bá Liễu (là con trai út của NSND Lê Bá Tùng) đã từng kể về quãng thời gian được sống cùng cha mình và những năm tháng sau này của NSND Lê Bá Tùng (còn được dân mê tuồng gọi là Chánh Tùng):

“Năm 1959, Nhà nước lập Trường sân khấu Trung ương tại Cầu Giấy, bố tôi được mời làm giáo viên khoa tuồng của trường. Tôi được ông mang theo cùng, gửi học chữ ở trường tư kế bên trường. Ngày lại ngày, bố tôi bận bịu công việc giảng dạy, viết sách, đóng phim... Hiếm khi nghỉ ngơi ngoài lễ thường cuối tuần, ông dắt tôi qua thăm thầy giáo Đán - người dạy chữ cho tôi. Năm 1968, tôi nhập ngũ vào Nam chiến đấu, bố tôi về hưu tại quê nhà (TX. Thái Hòa, huyện Nghĩa Đàn).

Mẹ tôi nói, ngày bố tôi về hưu, với quãng đời còn lại, ông nguyện chỉ sống chết với sân khấu tuồng. Vậy nên khi ở nhà chưa ấm chỗ, giấy tờ chưa chuyển hết về địa phương, đã thấy ông tới giúp các các đội văn nghệ trong vùng, dàn dựng các tích tuồng, xem đó như dịp để truyền rộng nghệ thuật hát tuồng đến công chúng. Với các đội văn nghệ quanh vùng thời đó, mời được thầy Chánh Tùng là quý lắm. Chẳng ở cái danh “thầy tuồng” Trung ương, càng không vì thầy dạy không lấy thù lao, cái chính là tài diễn và tấm lòng thảo thơm chung thủy của thầy với nghề.

Năm 1984, bố tôi mất ở tuổi 85 khi ông dàn dựng dở dang một tích tuồng cổ cho huyện nhà. Năm 1997, ngày giỗ thứ 13, tôi về quê thắp hương cho bố tôi, cùng lúc ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sỹ nhân dân. Chị gái tôi kể trong niềm xúc động rằng, lễ trao danh hiệu cho bố tôi trân trọng lắm. Các vị lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo Sở Văn hóa đều có đánh giá cao về tài năng, đức nghề của ông. Đặc biệt, Hội văn nghệ dân gian nhận xét ông là người có công đào tạo nghề trong môn nghệ thuật luôn lấy đạo nghĩa, trung tín làm nền cho mọi tích diễn, trường tồn với nhân gian”. 

Tôi đã từng đến ngôi nhà nhỏ của nhà báo Lê Bá Liễu tại thị xã Thái Hòa cách đây vài năm. Trên bàn thờ của gia đình, tôi đã gặp bức ảnh đá khiêm nhường thờ NSND Lê Bá Tùng. Gương mặt ông có chút gì hiền hậu và hóm hỉnh. Tôi đã không biết, ông chính là một trong những nghệ sỹ người Nghệ đầu tiên được vinh danh là Nghệ sỹ nhân dân. Nhưng tôi hiểu, Lê Bá Tùng đã sống không phải vì điều đó, mà bởi rằng trên sân khấu tuồng, ông đã được sống cuộc đời của chính mình.
NSND Lê Bá Tùng  sinh năm 1899 , tại phố Đệ Tam, thị xã Vinh (nay là thành phố Vinh), Nghệ An. Mất năm 1984 tại Thái Hòa, Nghĩa Đàn. Vợ NSND Lê Bá Tùng là Nguyễn Thị Bốn, mê tiếng hát của kép Chánh Tùng mà nên vợ chồng. Trước khi NSND Lê Bá Tùng mất, trong lễ mừng thọ ông, cụ Nguyễn Vựng, một cán bộ lão thành của địa phương tặng đôi vế đối: Ra Bắc vào Nam mấy độ, lời ca còn vang vọng/ Trong làng ngoài nước một thời, tiếng hát mãi truyền lưu.
Thùy Vinh

tin mới

Bâng khuâng... làng nồi Trù Sơn

Bâng khuâng... làng nồi Trù Sơn

(Baonghean.vn) - Hội tụ đầy đủ tiềm năng, lợi thế để phát triển mô hình du lịch trải nghiệm, nhưng để nghề làm nồi đất Trù Sơn (Đô Lương) vươn xa thì còn cần rất nhiều yếu tố…

Lưu giữ điệu ru của người Thái cổ

Lưu giữ điệu ru của người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Để lưu giữ những làn điệu ru con của dân tộc Thái, các thành viên CLB Bảo tồn bản sắc văn hóa Thái tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu) đã thay nhau tìm hiểu, ghi chép lại các điệu hát ru, đồng thời tổ chức các lớp học để truyền dạy cho con cháu.

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

(Baonghean.vn) - Thấu hiểu nỗi đau của những người vợ mất chồng, của con mất cha nơi biển lớn, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tại vùng biển Quỳnh Lưu đã tích cực đồng hành với những người phụ nữ yếu thế, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

(Baonghean.vn) - Hiếm có một vùng quê nào lại có nhiều người đỗ đạt thành danh và có nhiều di tích được xếp hạng như xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Nắm bắt lợi thế đó, gần đây địa phương này đã tiên phong phát triển du lịch, với những tour du lịch mang nhiều ý nghĩa.

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Lễ hội Hang Bua ở huyện Quỳ Châu là một sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Thái phía Tây Bắc Nghệ An. Sinh hoạt văn hóa này cũng là không gian lưu giữ những nét truyền thống của cư dân bản địa vừa góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

(Baonghean.vn) - Lễ hội Đền Cờn năm 2024 có nhiều hoạt động, trò chơi dân gian, nhưng đặc sắc nhất là tục chạy ói với màn rước kiệu, tung kiệu bay trên biển. Tục chạy ói thường được tổ chức vào sáng ngày 21 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, là nghi lễ quan trọng với ngư dân vùng biển.

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

(Baonghean.vn) - Nằm ở ngã ba sông, nơi hợp lưu của dòng Nậm Nơn và Nậm Mộ để hình thành nên dòng sông Cả kỳ vĩ bồi đắp cho vùng hạ du, đền Vạn - Cửa Rào được xem là ngôi đền linh thiêng nhất miền Tây xứ Nghệ. Sáng 1/3 (20 tháng Giêng), người dân muôn phương đã nô nức dự Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào.

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Hang Bua là thắng cảnh tự nhiên nằm trong dãy núi đá vôi “Phà Én” thuộc xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, cách thành phố Vinh 170km về phía Tây Bắc. Lễ hội Hang Bua là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào các dân tộc của huyện nói riêng và vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung.

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…