18 vị vua Hùng là những vị vua nào
Danh sách 18 vị vua Hùng là những vị vua nào? Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày giỗ vị vua nào?
Vua Hùng, theo truyền thuyết, là các vị vua đầu tiên của dân tộc, khởi đầu triều đại Hùng Vương và xây dựng nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Giỗ tổ Hùng Vương, còn gọi là Lễ hội Đền Hùng hay Quốc giỗ, là dịp để nhân dân Việt Nam tưởng nhớ các Vua Hùng, những người được coi là tổ tiên lập nên đất nước Việt Nam.
Lễ Giỗ tổ Hùng Vương là dịp để người dân bày tỏ lòng biết ơn đối với cội nguồn dân tộc. Nó thường diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Đền Hùng, thuộc tỉnh Phú Thọ. Đây là sự kiện lớn có ý nghĩa cả về tâm linh, văn hóa lẫn lịch sử, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân trên khắp cả nước.

Danh sách 18 vị vua Hùng là những vị vua nào
Theo nhiều tài liệu sử hiện nay, dựa trên tài liệu khai quật và “Đại Việt sử lược”, 18 đời Hùng Vương trị vì gồm những vị vua sau.
(1) Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr. TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL).
(2) Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL).
(3) Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương, 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr. TL.
(4) Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL).
(5) Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL).
(6) Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL).
(7) Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL).
(8) Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1332 tr. TL).
(9) Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr. TL.
(10) Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, 3 đời, 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr. TL.
(11) Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL).
(12) Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL).
(13) Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL).
(14) Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
(15) Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL).
(16) Hùng Tạo Vương, húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 3 đời vua, lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL).
(17) Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL).
(18) Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL).
Nhiều vua Hùng như vậy, Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày giỗ vị vua nào?
Theo truyền thuyết và huyền sử, 18 đời vua Hùng đã nối tiếp nhau trị vì trong suốt hơn 2.600 năm. Nếu chia đều, mỗi đời vua sẽ kéo dài khoảng 150 năm, điều này khiến nhiều người nghi ngờ về tính thực tế.
Một số học giả giải thích rằng 18 đời vua Hùng không đại diện cho 18 cá nhân cụ thể, mà là 18 dòng hoặc chi, mỗi dòng có nhiều đời vua nối tiếp nhau trị vì và cùng sử dụng một vương hiệu. Con số 18 cũng mang tính tượng trưng vì đây là bội số của 9 – con số thiêng trong văn hóa người Việt.
Mặc dù có nhiều đời vua Hùng, nhưng người Việt chỉ có một ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Điều này khiến nhiều người thắc mắc: đó là ngày giỗ của vị vua nào?
Trên thực tế, ngày giỗ tổ đã xuất hiện từ khoảng 2.000 năm trước. Dưới thời Thục Phán An Dương Vương, một cột đá thề được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh với lời nguyện khẳng định sự tôn kính và trách nhiệm đời đời với các vua Hùng và đất nước do các ngài để lại.
Từ xưa đến nay, các triều đại đều ghi nhận công lao to lớn của các vua Hùng trong việc mở nước, dựng nước. Vì thế, nhân dân ta đã dành một ngày để tưởng nhớ công lao to lớn đó, coi đây là dịp thể hiện lòng biết ơn với những người đặt nền móng cho quốc gia.
Ban đầu, người dân chưa có thói quen đi lễ đền Hùng đúng vào ngày 10/3 âm lịch như hiện nay. Họ thường chọn ngày tốt theo vận mệnh cá nhân để hành lễ suốt cả năm, đông nhất vào mùa xuân và mùa thu.
Ở nhiều địa phương, lễ cúng tổ được tổ chức vào ngày 12/3 âm lịch, kết hợp với thờ Thổ kỳ. Gia đình nào có con cháu ở xa thì làm lễ giỗ từ ngày 11/3, nhưng không tổ chức quy mô lớn.
Cách hành lễ kéo dài quanh năm như vậy vừa tốn kém, vừa thiếu sự thống nhất và chưa thể hiện đầy đủ lòng thành kính của cả cộng đồng. Thấy được điều này, năm 1917, dưới triều Khải Định, Tuần phủ Phú Thọ là ông Lê Trung Ngọc đã đề xuất lên Bộ Lễ xin lấy ngày 10/3 âm lịch làm ngày giỗ Tổ chính thức của cả nước.

Từ đó, ngày 10/3 âm lịch hằng năm trở thành dịp quan trọng để người dân cả nước hướng về cội nguồn – vùng đất Phú Thọ, nơi thờ các vua Hùng.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương từ đó đến nay đã trở thành một ngày lễ lớn, còn được gọi là Quốc giỗ. Đây là dịp để toàn dân tưởng nhớ tổ tiên, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn. Trong ngày này, người lao động trên cả nước được nghỉ làm để tham gia các hoạt động tưởng niệm.