Bền duyên "Bách niên giai lão"

18/02/2015 07:29

(Baonghean) - Cuộc hôn nhân của họ đã kéo dài gần 90 năm. Ngần ấy năm bên nhau với bao thăng trầm, khốn khó, và khi được hỏi về những dấu mốc sự kiện của cuộc đời, họ lại nhớ về những cái Tết trong quá khứ với bao kỷ niệm...

Cặp vợ chồng “bách niên giai lão ấy” là cụ ông Cao Viễn (sinh năm 1908) và cụ bà Vũ Thị Hai (sinh năm 1914) ở xóm 2, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu. Lúc chúng tôi đến thăm, cụ ông đang lúi húi dưới bếp nhóm lò nấu nước, còn cụ bà tựa lưng vào thành giường, nhìn cụ ông làm việc. Cụ bà Vũ Thị Hai chậm rãi nói, sức khỏe yếu hơn ông, tai nghễnh ngãng đi nhiều, mấy năm nay chỉ đi lại trong nhà chứ không còn làm được việc gì giúp ông, giúp con cháu nữa. “Thường ngày có cô con gái út mới… 60 tuổi qua lại quét tước, đỡ đần, nay “em nó” bận nên ông tự làm lấy”. Chúng tôi ngỏ ý muốn xuống bếp giúp ông nấu nước, thì bà gạt đi: “Việc trong nhà ông chỉ thích túc tắc làm một mình, không muốn phiền ai. Làm việc cũng là cách để ông khuây khỏa...”.

Cụ ông Cao Viễn và cụ bà Vũ Thị Hai.
Cụ ông Cao Viễn và cụ bà Vũ Thị Hai.

Theo cách tính tuổi của người Việt (tính cả tuổi mụ), thì năm nay cụ Vũ Thị Hai đã 102 tuổi. Tuổi cao, sức yếu, những nếp hằn thời gian hiện rõ trên cơ thể cụ, nhưng gương mặt và lối trò chuyện toát ra vẻ phúc hậu, minh mẫn, dí dỏm. Cuộc trò chuyện diễn ra khá… ồn ào, do chúng tôi phải nói thật to cụ mới nghe rõ. Cả hai vợ chồng cụ đều là người làng Phượng Lịch, thuộc xã Diễn Hoa. Làng Phượng Lịch có nghề dệt vải Bùi nổi tiếng, đi vào câu ca: “Sống vải Bùi, chết vùi vàng tâm”. Nói chẳng đâu xa, ngay cụ Vũ Thị Hai cũng chính là thôn nữ dệt vải khéo có tiếng của làng Phượng Lịch năm xưa, dệt từng súc vải to mang ra phiên chợ Hôm bán. Cụ bảo: “Vải dệt có loại vải kén khô, giá rẻ, chỉ một màu chàm hoặc nâu đất cho người lao động mặc, cứng quàu quạu. Loại khác đắt tiền hơn thì nhuộm nhiều màu lắm, loại này ít làm vì thời đó còn nghèo, mấy ai mua”. Vải Bùi làng Phượng Lịch có tiếng vừa bền, vừa đẹp được làm bằng những bàn tay khéo léo của các cô gái xinh xắn trong làng. Hai lẽ ấy đã khiến cho những buổi chợ Hôm hàng tháng ở Phượng Lịch nhộn nhịp hẳn lên, nhất là vào cữ Tết…

Cụ ông Cao Viễn chầm chậm xách ấm nước đi lên, lưng còng mọp xuống, bước chân có phần tập tễnh vì bệnh xương khớp tuổi già. Cụ cẩn thận gắn lại chiếc máy trợ thính, đoạn mới đằng hắng hỏi: “Các chú, các o đến có việc chi?” Chúng tôi thưa cụ về chuyến thăm này, và xin được trò chuyện một chút với các cụ về cuộc sống thường nhật của người già. Cụ hóm hỉnh, cười bảo: “Tui với bà đây lấy nhau lâu rồi, sinh 8 đứa con nhưng chỉ nuôi được 7. Đến giờ thì cả thảy 35 cháu, 55 chắt, chuẩn bị có mấy đứa chút…”. Hai cụ giờ sống túc tắc bên nhau, còn các con các cháu, đều lập gia đình riêng và bận rộn với lao động, học tập. Thường ngày, có cô con gái út là bà Cao Thị Quế (1955) chợ búa, cơm nước, nếu con bận, thì gửi hàng xóm đi chợ mua thức ăn rồi tự nấu lấy. “Bà Hai run tay run chân rồi, còn tôi vẫn nấu ăn được” - cụ ông cho hay.

Năm 17 tuổi, chàng trai Cao Viễn cao to vạm vỡ tham gia vào lực lượng dân công, cùng thanh niên làng Phượng Lịch và các làng lân cận đắp đê, mở đường, tích cực trong các phong trào yêu nước. Khi 23 tuổi, anh về báo với gia đình mang trầu cau sang hỏi cưới cô Vũ Thị Hai tròn 18 tuổi. Cuộc sống nghèo khó, ruộng ít, con đông, cụ bà ở nhà dệt vải, còn cụ ông cùng bạn bầu đi làm thợ ngói ở xứ Lường. Cụ bảo, nghèo đến độ, Tết cũng chỉ như ngày thường, bố mẹ và 7 đứa con xì xụp bữa cháo sắn, cháo khoai qua 3 ngày Tết, chỉ gắng trang trọng cái ban thờ gia tiên, có cặp bánh chưng nhân ít mỡ hành. Rồi cụ bần thần nhớ đến nạn đói năm 1945, bấy giờ, hai ông bà đã có với nhau 4 mặt con: “Đói đến cám cũng không có mà ăn. Cả làng như thế chứ không chỉ nhà tôi. Tết năm đó, đi mót dải khoai ngoài đồng, rồi băm nhỏ, thả tí muối vào thành món tất niên…”. Ký ức của người bách niên như màn sương ẩn hiện, cụ lấy những cái Tết như một cách đánh dấu mốc cuộc đời mình. “Tui còn nhớ Tết Độc lập năm 1975, lúc đó tui đang lợp dở mái nhà thì thấy cả làng đánh kẻng choang choang. Mọi người hét to: “Thắng rồi, ta thắng rồi!” mới biết nước nhà độc lập… Năm nớ, làng ăn Tết to lắm”.

Trong những lời kể của cụ Cao Viễn thì những đận nghèo khó hiển hiện rõ nét, nhưng cụ nhắc đi nhắc lại rằng, dẫu nghèo đói đến mấy, thì hai cụ vẫn rèn dạy con cái sống đàng hoàng, “đói cho sạch, rách cho thơm”. Đoạn, cụ quờ tay lấy chiếc gậy để trong góc, chống tập tễnh vào giường ngủ lục tìm bài thơ dài cụ viết để răn dạy con cháu về nề nếp, gia phong. Bài thơ cụ đặt tên là “Giáo huấn con cháu”, gửi gắm tâm nguyện đến thế hệ sau. Không cần kính, cụ Cao Viễn cầm giấy đọc to:

“… Dẫu rằng ruộng tốt bề bề.

Cũng phải giữ lấy cái nghề trong tay.

Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.

Nhược bằng lười biếng ắt sinh đói nghèo…”.

…“Thôi đừng bạc bẽo với đời.

Lòng mà trung hậu phúc thời dài lâu.

Việc chưa đến chớ dồn bụng nghĩ.

Việc đã qua chớ để trong lòng.

Bốn mùa hòa khí xuân phong...”.

Giọng đọc của cụ Cao Viễn rành rẽ, sảng khoái, đôi mắt tinh anh thi thoảng ánh lên nét hóm hỉnh tươi vui. Cụ chủ động đề xuất rằng, nói chuyện xưa làm gì, giờ phải nói chuyện tương lai! Rồi ông tự hào về gần trăm người con, cháu, chút chít luôn lo lao động, học tập, có những đứa cháu đang học tập, làm việc ở nước ngoài… Đoạn, cụ ông nắm tay cụ bà, nhìn bằng ánh mắt trìu mến: “Tui còn khỏe chơ bà yếu đi nhiều rồi. Bà khổ cả đời, cực nhọc kiếm ăn, rồi chiến tranh loạn lạc, rồi nuôi con, chăm cháu. Già rồi, nhà tui chỉ mong con cháu phát triển, xã hội phồn vinh và thấy vui vì năm nào cũng được “các bác” đến thăm, tặng quà, may áo mới cho”. Từ “các bác” trong ý tứ cụ Viễn là đại diện chính quyền các cấp, hàng năm, vào dịp Xuân về, Tết đến thường xuyên đến thăm nom các cụ, âu cũng là tình nghĩa tri ân của thế hệ trẻ đến các bậc già lão của quê hương.

Chúng tôi chia tay hai cụ để trở về phố cho kịp chuyến xe chiều. Đã đi khuất chiếc cổng sắt vòm xanh thân thuộc, ngoái lại đằng sau, vẫn thấy hai ông bà nắm tay nhau ngồi nhìn ra khoảng sân nhạt nắng, ngỡ như gần trăm năm trước đã bình yên và yêu thương như vậy, rồi đến cả mai này vẫn thế…

Theo hồ sơ đề cử của Tổ chức kỷ lục Việt Nam, 9h sáng 27/8/2014, từ Thành phố Faridabad, bang Haryana của Ấn Độ, Tổ chức Kỷ lục châu Á đã có văn bản chính thức công nhận hai kỷ lục châu Á mới của Việt Nam về người cao tuổi. Trong đó, kỷ lục cặp vợ chồng cao tuổi nhất châu Á thuộc về cặp vợ chồng cụ Cao Viễn (sinh năm 1908) và cụ Vũ Thị Hai (sinh năm 1914) tại làng Phượng Lịch, xóm 2, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Phương Chi

Mới nhất
x
Bền duyên "Bách niên giai lão"
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO