Điềm Phùng Thị biến hóa vô lường cùng '7 mẫu tự'

(Baonghean.vn) - Điềm Phùng Thị - Phùng Thị Cúc là một nghệ sĩ tiêu biểu của điêu khắc Việt Nam và Pháp thời hiện đại. Bà đến với nghệ thuật điêu khắc khá muộn, khi đã là một bác sĩ - tiến sĩ, nhưng đã sớm nổi tiếng ở Pháp và châu Âu bởi sự độc đáo bởi “7 mẫu tự” - ngôn ngữ điêu khắc riêng của bà.

TỪ BÁC SĨ TRỞ THÀNH NGHỆ SĨ

Điềm Phùng Thị biến hóa vô lường cùng '7 mẫu tự' ảnh 1
Nhà điêu khắc tài danh Điềm Phùng Thị.

Điềm Phùng Thị tên thật là Phùng Thị Cúc sinh ngày 18 tháng 8 năm 1920 tại Châu Ê, xã Thủy Bằng, Thừa Thiên Huế. Quê nội bà ở xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; là con cụ ông Phùng Duy Cẩn từng làm Tham công chỉ huy việc xây Lăng Khải Định, Quản đạo tỉnh Kon Tum, Án sát tỉnh Bình Thuận, Tham tri bộ Công, về hưu với chức Công bộ Thượng thư Hiệp tá Đại học sĩ.

Mồ côi mẹ từ lúc 3 tuổi, 6 tuổi đã theo cha sống ở Kon Tum 9 năm rồi mới về Huế học tiểu học. Sau đó, Điềm Phùng Thị trở thành nữ sinh Trường Đồng Khánh (Huế) rồi sinh viên Đại học Y Hà Nội.

Năm 1946, Phùng Thị Cúc tốt nghiệp nha khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội khóa đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn quốc kháng chiến, bà ra vùng tự do phục vụ cho kháng chiến. Vì bị bệnh nặng, năm 1948, bà được đưa sang Pháp điều trị. Tại Pháp sau khi khỏi bệnh, Phùng Thị Cúc tiếp tục học và tốt nghiệp tiến sĩ nha khoa năm 1953. Tại đây, Phùng Thị Cúc đã kết hôn với người đồng nghiệp là ông Nguyễn Phúc Bửu Điềm - một người bạn Huế từ thời thơ trẻ. Tên Điềm Phùng Thị ra đời từ đó.

Sau hơn 10 năm hành nghề bác sĩ, năm 1959, Phùng Thị Cúc đã bắt đầu đến với nghệ thuật điêu khắc. “Đầu những năm 60, chiến tranh ở quê nhà diễn ra rất ác liệt. Cảnh chết chóc được truyền hình chiếu đi chiếu lại, làm cho đầu óc ai cũng căng thẳng. Để giữ thăng bằng, tôi đi học võ, học làm đồ gốm để thoát ra khỏi sự chật hẹp của cái mồm của nghề răng! Một hôm đi ngang qua một cái xưởng nặn tượng đất sét, tôi dừng lại đó rồi không đi đâu khác nữa. Hình như, có một sức hút nam châm thu hút tôi, giữ tôi lại. Tôi không xác định được tôi tìm đến điêu khắc hay điêu khắc đã chọn tôi…” - Đây là một quyết định táo bạo làm thay đổi cuộc đời của bà. Trải biết bao thăng trầm nhọc nhằn để trở thành bác sĩ/tiến sĩ và một cuộc sống bình yên, nhưng bà đã để lại phía sau để đến với điêu khắc vì một nỗi khắc khoải với quê hương đang đau khổ vì chiến tranh, vì bà nhìn thấy nghệ thuật có thể giúp bà cất lên tiếng nói vì quê hương, vì Tổ quốc. Bà tự tin thay đổi chính mình vì “không thể suốt đời chỉ sống trong 36 cái răng trong miệng”. Bà khát khao muốn làm điều gì đó để lòng tự tôn dân tộc được lên tiếng bằng nghệ thuật và nhân cách của mình.

Nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị bên tác phẩm của mình.
Nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị tại Paris năm 1967. Ảnh tư liệu

BIẾN HÓA VÔ LƯỜNG CÙNG “7 MẪU TỰ”

Năm 1963, ở Paris, Điềm Phùng Thị mở cuộc triển lãm đầu tiên và được công chúng nồng nhiệt đón nhận. GS. Madi Menier của Đại học Paris 1 – Sorbonne đã đánh giá: “Lần đầu tiên không cầu kỳ chuộng lạ hương xa, một nhà tạc tượng – trong số biết bao nhà tạc tượng từ Viễn Đông đến Paris – giành được chỗ đứng cho châu Á ngay trong lòng ngành điêu khắc rất hiện đại của Paris. Tác phẩm của một nghệ sĩ bậc thầy và tác phẩm tiên tri. Sự đơn giản hóa cao độ và tinh tế các hình thể, hiếm có, tinh khiết, đan xen nhau, đã trực tiếp dự báo rõ rệt đặc điểm sau này của nghệ thuật Điềm Phùng Thị, một phong cách sáng tạo độc đáo, hoàn toàn mới mẻ, chỉ có ở bà” (Madi Menier, Diem Phung Thi “Lettré(s) de science et de talent” – 1997).

Từ sau cuộc triển lãm ra mắt đó cho đến năm 1990, Điềm Phùng Thị đã tổ chức 22 cuộc triển lãm ở châu Âu và nhiều nước trên thế giới. Ở nước Pháp, bà được mời dựng tượng đài ở 36 địa điểm. Năm 1991, tên Điềm Phùng Thị được đưa vào từ điển Larousse Art du XX sìecle. Năm 1992, bà được bầu vào Viện hàn lâm Khoa học – Văn nghệ châu Âu. Ở Việt Nam, Điềm Phùng Thị đã 2 lần triển lãm, ở Sài Gòn (1962) và Hà Nội (1978).

Điềm Phùng Thị - trên hành trình nghệ thuật của mình chủ yếu dành sáng tạo cho 3 chủ đề là phụ nữ và trẻ em, phản đối chiến tranh và sự nhớ thương quê hương Việt Nam.

7 mẫu tự – ngôn ngữ điêu khắc của Điềm Phùng Thị.
7 mẫu tự – ngôn ngữ điêu khắc của Điềm Phùng Thị.

Về ngôn ngữ tạo hình, bà đã đi từ tượng tròn với góc nhìn đậm chất nữ tính và đã có những dấu ấn riêng với quan điểm thẩm mỹ về sự hài hòa, gợi cảm từ thân thể người phụ nữ, cảm thức tươi mát, trinh nguyên và tinh tế, những khối hình và đường nét uyển chuyển mềm mại, chủ yếu mô phỏng các hình tượng thường thấy trong đời sống được thể hiện bằng các hình thể đã đơn giản hóa đến mức cao độ nhưng ẩn chứa sự nhạy cảm diệu kỳ, phảng phất nét huyền bí Đông phương. Nghệ thuật tượng tròn thuở ban đầu của bà với những hình thể tinh túy chắt lọc đến mức cô đọng khái quát thành những "thành tố đơn giản, dễ làm, tránh được nguy cơ biến dạng" (Điềm Phùng Thị) đã dự báo một phong cách mang tinh thần trừu tượng với những khái niệm tính siêu việt. Từ các hình khối vuông, hình thang, chữ nhật, hình tròn… bà tạo ra 7 module đặc hữu mà người ta gọi là  “7 chữ cái Điềm Phùng Thị” (nhà phê bình nghệ thuật Raymond Cogniat), “7 nốt nhạc Điềm Phùng Thị” (GS. Trần Văn Khê)… Bà đã lắp ghép/biến hóa những module ấy thành những tác phẩm nghệ thuật vô cùng biến ảo và thấm đẫm triết lý Đông Phương, mang thương hiệu độc quyền Điềm Phùng Thị.  Đó là “ngôn ngữ Điềm Phùng Thị”, là thế giới của “7 mẫu tự”.

Các tác phẩm của Điềm Phùng Thị phần lớn được lắp ghép từ các modul theo những cấu trúc cơ bản của design thị giác bằng nhiều chất liệu khác nhau theo nhóm, tập trung hay lối tiệm biến, khai thác vai trò của ánh sáng và hiệu quả lực thị giác đều giúp cho những "chữ cái" cất lên tiếng tư duy của tác giả. “Với những modul giản lược vừa mang dáng dấp kỷ hà, vừa có tính biểu tượng như những khái niệm rất phù hợp với không gian kiến trúc châu Âu hiện đại cũng như tinh thần duy lý phương Tây, các tác phẩm của bà đã cấu thành và nổi bật cùng không gian thiên nhiên, biến không gian thiên nhiên trở thành mẫu tự thứ 8 trong một thế giới riêng biệt của người nghệ sĩ. Mặt khác, điều làm cho tác phẩm của Điềm Phùng Thị không xa lạ với tư duy cảm tính phương Đông, đặc biệt "Việt Nam" hơn tất thẩy những gì thuần Việt, đó là sự thể hiện những dạng thức hướng nội” (Lê Thị Mỹ Ý). GS Trần Văn Khê cũng đã nhận xét: “Tượng của chị đã gợi trong lòng tôi những hình ảnh kiến trúc, hội họa và âm nhạc của dân tộc Việt Nam. Tính dân tộc trong công trình điêu khắc của chị gợi cho người xem cái kỳ thú của một sự khám phá cái dịu dàng khi tìm lại được cảnh cũ dấu xưa”.

Một số tác phẩm của Nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị: “Thẹn thùng” (chất liệu thạch cao – 1966); “Xiếc IV” (chất liệu nhựa tổng hợp – 1971); “Cha con” (chất liệu nhôm – 1978) và “Im lặng” (chất liệu gỗ, 1988 – 1993).
Một số tác phẩm của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị: “Thẹn thùng” (chất liệu thạch cao – 1966); “Xiếc IV” (chất liệu nhựa tổng hợp – 1971); “Cha con” (chất liệu nhôm – 1978) và “Im lặng” (chất liệu gỗ, 1988 – 1993). Ảnh tư liệu: kientrucvadoisong

Tinh thần dân tộc của bà không chỉ thể hiện trong nghệ thuật mà cả trong các hoạt động xã hội. Bà là người mạnh mẽ phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và có nhiều hoạt động hỗ trợ phái đoàn Việt Nam trong quá trình Hội nghị Paris về Việt Nam (1968 – 1973).

Những năm cuối đời bà về sinh sống ở Huế và mất tại đây ngày 29/01/2002. Bà đã tặng thành phố Huế gần 400 tác phẩm trong số hàng ngàn tác phẩm của mình trong hành trình hơn 40 năm sáng tạo nghệ thuật. Ở TP. Huế từ 1994 có Trung tâm nghệ thuật Điềm Phùng Thị trưng bày 376 tác phẩm với 498 hiện vật tại 17 Lê Lợi.

Điềm Phùng Thị và “ngôn ngữ Điềm Phùng Thị” là niềm tự hào của điêu khắc Việt Nam, của xứ Nghệ, xứ Huế và cả Việt Nam.

Trung tâm nghệ thuật Điềm Phùng Thị (số 17 Lê Lợi, TP. Huế). Ảnh: Đình Toàn/TNO
Trung tâm nghệ thuật Điềm Phùng Thị (số 17 Lê Lợi, TP. Huế). Ảnh: Đình Toàn/TNO

tin mới

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

(Baonghean.vn) - Thấu hiểu nỗi đau của những người vợ mất chồng, của con mất cha nơi biển lớn, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tại vùng biển Quỳnh Lưu đã tích cực đồng hành với những người phụ nữ yếu thế, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

(Baonghean.vn) - Hiếm có một vùng quê nào lại có nhiều người đỗ đạt thành danh và có nhiều di tích được xếp hạng như xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Nắm bắt lợi thế đó, gần đây địa phương này đã tiên phong phát triển du lịch, với những tour du lịch mang nhiều ý nghĩa.

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Lễ hội Hang Bua ở huyện Quỳ Châu là một sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Thái phía Tây Bắc Nghệ An. Sinh hoạt văn hóa này cũng là không gian lưu giữ những nét truyền thống của cư dân bản địa vừa góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

(Baonghean.vn) - Lễ hội Đền Cờn năm 2024 có nhiều hoạt động, trò chơi dân gian, nhưng đặc sắc nhất là tục chạy ói với màn rước kiệu, tung kiệu bay trên biển. Tục chạy ói thường được tổ chức vào sáng ngày 21 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, là nghi lễ quan trọng với ngư dân vùng biển.

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

(Baonghean.vn) - Nằm ở ngã ba sông, nơi hợp lưu của dòng Nậm Nơn và Nậm Mộ để hình thành nên dòng sông Cả kỳ vĩ bồi đắp cho vùng hạ du, đền Vạn - Cửa Rào được xem là ngôi đền linh thiêng nhất miền Tây xứ Nghệ. Sáng 1/3 (20 tháng Giêng), người dân muôn phương đã nô nức dự Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào.

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Hang Bua là thắng cảnh tự nhiên nằm trong dãy núi đá vôi “Phà Én” thuộc xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, cách thành phố Vinh 170km về phía Tây Bắc. Lễ hội Hang Bua là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào các dân tộc của huyện nói riêng và vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung.

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu có một phòng trưng bày rất đặc biệt mang tên Pỉ Noọng. Đây là không gian trưng bày vật dụng truyền thống của các dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Dao, Tày… do bà Sầm Thị Bích dày công sưu tầm từ những năm 1990 cho đến nay.