Les soldats de Nghe An dans l'armée prenant le contrôle de la capitale
De l'escadron de l'armée de libération de l'armée Cung, établi juste après la révolution d'août dans la ville de Vinh et alors nommé régiment 57, à travers de nombreuses campagnes pendant les 9 années de résistance contre les Français, les soldats de la patrie soviétique de Nghe Tinh sont revenus du champ de bataille de Dien Bien Phu pour rejoindre la 308e division pour prendre le contrôle de la capitale il y a 70 ans.
De ma ville natale Nghe An
Le 21 août 1945, le soulèvement pour la prise du pouvoir à Nghe An fut victorieux et le Comité populaire révolutionnaire provisoire fut présenté aux masses. Le 24 août, un appareil gouvernemental révolutionnaire complet fut mis en place. Le 28 août 1945, s'appuyant sur le Programme d'action du Viet Minh, le Comité populaire révolutionnaire de Nghe An annonça dix nouvelles politiques, dont :« Organisez l’armée de libération, renforcez la milice et la police. »Ainsi, les équipes d’autodéfense, qui constituaient la force de choc lors du soulèvement général, devinrent désormais les forces armées du nouveau gouvernement.

Đến cuối năm 1945, hầu hết các thôn xóm đều có đội dân quân; các đường phố, nhà máy có đội tự vệ. Có thể xem như đây là một kế tục của các đội tự vệ đỏ (còn gọi là Xích vệ đỏ) được hình thành trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Bên cạnh lực lượng dân quân tự vệ, Chi đội giải phóng quân mang tên Đội Cung được thành lập tại thành phố Vinh do đồng chí Nguyễn Văn Uyển làm Chi đội trưởng, đồng chí Nguyễn Phan làm Chính trị viên, ông Nguyễn Văn Trân vốn là lính bảo an của chính quyền cũ làm Chi đội phó.
Sau Cách mạng Tháng Tám, tình hình chính trị, an ninh ở Nghệ An khá phức tạp. 1 vạn lính Nhật còn nguyên vũ khí, các đám tàn quân Pháp vẫn ráo riết hoạt động ở biên giới các huyện miền Tây. Tiếp đó, ngày 24/9/1945, 1 vạn quân Tưởng bắt đầu vào thế chân quân Nhật, gây ra rất nhiều phức tạp nhằm chống phá chính quyền cách mạng. Chi đội Đội Cung đã sát cánh cùng chính quyền cách mạng xử lý khôn khéo và mưu trí, không sa vào bẫy khiêu khích của chúng, giữ vững chủ quyền quốc gia và khối đoàn kết dân tộc.
Để bảo vệ an ninh biên giới phía Tây, Chi đội Đội Cung và lực lượng vũ trang Nghệ An chủ động tấn công vào các đám tàn quân Pháp, ngăn ngặn chúng xâm nhập vào lãnh thổ. Một đơn vị của chi đội Đội Cung và tự vệ của các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương tập kích quân Pháp ở đồn Noọng Hét (tỉnh Xiêng Khoảng – Lào).
Đến Điện Biên Phủ
Để kiện toàn tổ chức lực lượng vũ trang, ngày 1/6/1946, Chi đội Đội Cung đổi tên thành Trung đoàn 57. Đội hình trung đoàn lúc này có 3 tiểu đoàn bộ binh 346, 265 và 418.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, đúng 23h ngày 19/12/1946, Trung đoàn 57 đã cùng các lực lượng vũ trang Nghệ An đồng loạt nổ súng và đến 0h30 ngày 20/12/1946 đã buộc quân Pháp ở thành phố Vinh đầu hàng không điều kiện. Tiếp đó, dưới sự chỉ huy của Chiến khu Tư, Trung đoàn 57 đã tung lực lượng lên miền Tây hoạt động, chiến đấu và xây dựng lực lượng ở vùng Mường Xén, Quỳ Châu. Một bộ phận khác kết hợp với tiểu đoàn 400 (trung đoàn 103 - Hà Tĩnh) chiến đấu tại Quảng Bình, liên tiếp tiến công tiêu diệt địch ở Sen Bàng, Thụ Lộc, Hoàn Lão, mở rộng khu du kích ở Bố Trạch, sau rút về phía Bắc, cùng các đơn vị bạn xây dựng tuyến phòng ngự sông Gianh, đèo Ngang.
Tháng 11/1949, cả Trung đoàn tiến vào Quảng Bình cùng với các trung đoàn 18, 95, 101, tiểu đoàn công pháo 888 và lực lượng vũ trang địa phương Bình Trị Thiên tham dự chiến dịch Lê Lai tại các huyện Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch (từ ngày 22/12/1949 đến ngày 27/1/1950). Trong chiến dịch này, trung đoàn 57 đã đánh thắng nhiều trận ở Đại Nam, Phú Kênh, Đơn Sa, Ba Đồn, đặc biệt nhất là trận phục kích trên sông Gianh tiêu diệt 200 lính Âu-Phi tại Phù Trịch - La Hà (Quảng Trạch).

Ngày 10/3/1950, thực hiện Nghị định số 62-NĐA của Bộ Tổng tư lệnh ngày 9/2/1950, Đại đoàn chủ lực 304 được thành lập. Trung đoàn 57, sau chiến thắng sông Gianh nổi tiếng, đã từ chiến trường Bình Trị Thiên về hội quân tại Thanh Hóa trong đội hình sư đoàn cùng các trung đoàn 9 và 66. Lúc này, Trung đoàn 57 đã được bổ sung lực lượng từ Trung đoàn 103 (Hà Tĩnh) mà tiền thân là Chi đội Phan Đình Phùng.
Trong đội hình Sư đoàn 304, Trung đoàn 57 đã tham dự chiến dịch Trần Hưng Đạo (Đông Xuân 1950-1951) ở địa bàn Ninh Bình, Đông bắc Thanh Hóa; tham dự chiến dịch Quang Trung (từ ngày 28/5 đến ngày 20/6/1951), góp phần phá toang phòng tuyến sông Đáy và làm rung chuyển trung tâm chính trị Phát Diệm của địch.
Trong chiến dịch Hòa Bình (từ ngày 10-12-1951 đến 25-2-1952), Trung đoàn 57 được giao nhiệm vụ đánh địch trên đường 21 từ Chợ Bến đến Xuân Mai, đã đánh thắng nhiều trận, nổi bật nhất là tiêu diệt cao điểm Đồi Mồi án ngữ đường 21, tổ chức các trận phục kích địch trên đường 21 và đường 6, tham gia giải phóng thị xã Hòa Bình.
Sau chiến dịch Hòa Bình, Trung đoàn 57 được giao nhiệm vụ hoạt động ở vùng sau lưng địch thuộc địa bàn tỉnh Nam Định, phối hợp hoạt động với chiến trường Tả ngạn, củng cố các khu căn cứ và đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát động nhân dân chống càn, huy động lực lượng bổ sung cho quân chủ lực. Trong khoảng 3 tháng, Trung đoàn đã đánh 12 trận, đánh thắng nhiều trận như phục kích tàu địch trên sông Đáy, tiêu diệt đồn Lạc Quần, phục kích địch ở làng Trà Thượng, giải phóng nhà giam Lục Thủy, giải cứu 200 cán bộ sắp bị địch thủ tiêu… Tổng cộng tiêu diệt và bắt sống 700 tên địch.
Trong chiến dịch Tây Bắc 1952, Trung đoàn 57 và các đơn vị trong đại đoàn 304 cùng đại đoàn 320 hoạt động ở mặt trận nam đồng bằng Bắc bộ, trên địa bàn các tỉnh Nam Định, Ninh Bình. Trung đoàn 57 được giao cùng trung đoàn 66 đánh địch trên đường 10, tuyến Ninh Bình - Phát Diệm. Trung đoàn đã tiêu diệt cứ điểm Tuy Lộc Thượng, đánh chặn địch tiếp viện cho Phát Diệm trên sông Đáy, tiêu diệt đồn Vân Lai và nhiều đồn bốt khác trên đường 10.
Trong chiến dịch Thượng Lào, từ 13/4-18/5/1953, Trung đoàn 57 vượt đèo Puxailaileng, tiến theo hướng Mường Ngân, Mường Ngan tiến vào giải phóng thị xã Xiêng Khoảng, đóng góp xứng đáng vào chiến dịch với mục tiêu kéo dãn địch ra mà đánh của Bộ Tổng tư lệnh.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, Trung đoàn được giao nhiệm vụ giấu quân ở vùng Sơn Nhiễu, Kiều Thôn (Phú Thọ) để cùng các đơn vị bạn sẵn sàng tiêu diệt địch, bảo vệ an toàn cho căn cứ địa Việt Bắc. Sau đó, Trung đoàn chuyển về Thanh Hóa và đến ngày 20/11/1953 thì bắt đầu bí mật hành quân lên Mộc Châu rồi đến 5/1/1954 thì được lệnh hành quân lên Điện Biên Phủ, tiến vào khu vực phía đông Hồng Cúm. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ngay từ những ngày đầu tiểu đoàn 418 đã được lệnh tham gia kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra theo chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh. Trong đợt 1 (từ ngày 13/3 đến ngày 17/3), Trung đoàn 57 hoàn thành nhiệm vụ kiềm chế pháo binh địch ở Hồng Cúm. Đợt 2 (từ ngày 30/3-30/4) phối thuộc với các đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ kiềm chế pháo binh địch và đánh lấn vào khu C Hồng Cúm, chặn quân tiếp viện từ Hồng Cúm lên Mường Thanh và đánh quân nhảy dù ở xung quanh và phía nam Hồng Cúm. Đợt 3 của chiến dịch (1/5-7/5), tiểu đoàn trung đoàn thực hiện chốt chặn trên đường đi Tây Trang, không cho địch rút sang Lào.
Ngay sau khi chiến dịch kết thúc thắng lợi, trung đoàn 57 tiến quân về hướng Sơn Tây, Hà Đông, đánh tan địch ở Gia Hòa, Đại Đồng, Phố Gạch, uy hiếp các đồn bốt ở ven đường 11, 21A, và 21B, giải phóng phần lớn hai tỉnh này.
Tiến về tiếp quản thủ đô
Le 20 juillet, l'accord de Genève fut signé. Le 19 août, le 57e régiment entra pour libérer la ville de Son Tay et mit tout en œuvre pour renforcer la 308e division et prendre le contrôle de Hanoï.

Auparavant, l'unité avait envoyé un certain nombre d'officiers au Comité central d'armistice pour convenir des règles de réception de la remise spécifique de chaque place forte, de chaque poste, de chaque zone économique, parc industriel, port, aéroport... occupé par l'armée française.
Le matin du 9 octobre 1954, le bataillon 346 a suivi deux itinéraires depuis Ha Dong pour prendre le contrôle de l'aéroport de Bach Mai et de la gare de Vinh Tuy.
Le matin du 10 octobre 1954, le bataillon 346 envoya un peloton prendre le contrôle de l'hôpital Bach Mai. Au même moment, le bataillon 418 pénétra dans la région de Buoi, notamment l'école de Buoi, Quan Ngua et l'usine de cuir Thuy Khue.
Le matin du 10 octobre 1954, le bataillon 265 reçut le relais de l'armée française à la gare de Cau Giay. Il progressa ensuite vers Kim Ma et Ngoc Khanh, et déploya des compagnies au tertre de Dong Da, au Palais des Expositions et à la gare de Hanoï.
Ainsi, avant que l'armée principale n'entre dans la capitale, le 9 et tôt le matin du 10 octobre 1954, le 57e régiment a accompli avec succès la tâche de prendre des positions clés dans les arcs nord, ouest et sud-ouest de Hanoi, garantissant que l'armée principale entre dans la capitale en toute sécurité et solennellement.
Fidèles à la tradition des Forces rouges d'autodéfense soviétiques de Nghe Tinh, les courageux soldats du 57e régiment ont résisté neuf années aux Français, combattant et gagnant, se sacrifiant et mûrissant dans le sang et le feu. Le régiment a laissé ses traces sur les champs de bataille, de Nghe Tinh à Binh Tri Thien, de Xieng Khoang à Ninh Binh, Nam Dinh, de Hoa Binh à Son La, Dien Bien, et enfin de Son Tay, Ha Dong, pour prendre la capitale. Formés à la 304e division du IIe corps, les soldats du 57e régiment ont poursuivi toute la résistance contre les États-Unis, participant à l'avant-garde de l'armée qui a libéré Saïgon le 30 avril 1975.
