Giá vàng SJC đạt mức cao nhất từ đầu năm 2024; Thép tăng trên sàn giao dịch
(Baonghean.vn) - Giá vàng SJC đạt mức cao nhất từ đầu năm 2024; USD trong nước giảm, thế giới tăng nhẹ; Thép tăng trên sàn giao dịch... là những thông tin về tình hình thị trường hôm nay.
Giá vàng SJC đạt mức cao nhất từ đầu năm 2024
Khảo sát lúc 5h00 ngày 15/1, giá vàng trên sàn giao dịch của một số công ty như sau:
Giá vàng được DOJI niêm yết ở mức 73,95 triệu đồng/lượng mua vào và 76,95 triệu đồng/lượng bán ra.
Còn tại Công ty Vàng bạc đá quý Mi Hồng, thời điểm khảo sát niêm yết giá vàng SJC ở mức 74,50 – 75,80 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra).
Giá vàng SJC tại Công ty TNHH Bảo Tín Minh Châu cũng được doanh nghiệp giao dịch ở mức 74,00 – 76,90 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra). Còn tại Bảo Tín Mạnh Hải đang được giao dịch ở mức 73,95 – 77,15 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra).
Theo Kitco, giá vàng thế giới ghi nhận lúc 5h00 hôm nay theo giờ Việt Nam giao ngay ở mức 2.049,155 USD/ounce. Quy đổi theo tỷ giá hiện hành tại Vietcombank, vàng thế giới có giá khoảng 59,728 triệu đồng/lượng (chưa tính thuế, phí). Như vậy, giá vàng miếng của SJC vẫn đang cao hơn giá vàng quốc tế là 14,272 triệu đồng/lượng.
USD trong nước giảm, thế giới tăng nhẹ
Tỷ giá USD hôm nay, tỷ giá USD/VND giảm nhẹ, USD thế giới được dự báo sớm hạ nhiệt.
Tỷ giá trung tâm VND/USD được Ngân hàng Nhà nước công bố điều chỉnh mức 23,976 VND/USD, tăng 28 đồng so với phiên giao dịch ngày 12/1.
Hiện tỷ giá được phép giao dịch của các ngân hàng thương mại dao động từ 23.400 – 25.124 VND/USD. Tỷ giá đồng Đô la Mỹ cũng đã được Sở giao dịch Ngân hàng nhà nước đưa về phạm vi mua bán từ 23.400 đến 25.124 VND/USD.
Tỷ giá USD ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ trong nước vào sáng nay ghi nhận hàng loạt động thái điều chỉnh giảm tại các ngân hàng. Cụ thể, Vietcombank có mức mua vào là 24.260 và mức bán ra là 24.630, giảm 5 đồng so với phiên giao dịch ngày 12/1. Giá mua và bán USD hiện tại nằm trong khoảng từ 23.400 - 25.300 VND/USD.
Trên thị trường thế giới, chỉ số Dollar Index (DXY), đo lường đồng USD với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF), đã dừng ở mức 102,44 điểm – tăng 0,14% so với giao dịch ngày 12/1.
Yen Nhật tăng
Tỷ giá Yen Nhật khảo sát vào sáng ngày 15/1 tại các ngân hàng cụ thể như sau:
Tại Vietcombank có tỷ giá mua là 163,45 VND/JPY và tỷ giá bán là 173,00 VND/JPY, tăng 0,13 đồng ở chiều mua và tăng 0,12 đồng ở chiều bán. Tại Vietinbank, tỷ giá Yen tăng 0,05 đồng ở chiều mua và tăng 0,06 đồng ở chiều bán, tương đương với mức 164,23 VND/JPY và 173,93 VND/JPY. Tại BIDV, tỷ giá Yen Nhật tăng 0,34 đồng ở chiều mua và giảm 0,18 đồng ở chiều bán, lần lượt đạt mức 164,57 VND/JPY và 174,27 VND/JPY. Tại Agribank, tỷ giá Yen Nhật ở chiều mua và chiều bán là 164,95 VND/JPY và 170,00 VND/JPY – giảm 0,6 đồng ở chiều mua và giảm 0,75 đồng ở chiều bán. Tại Eximbank, tăng 0,44 đồng ở chiều mua và tăng 0,46 đồng ở chiều bán, lần lượt là mức giá 166,11 VND/JPY và 170,94 VND/JPY.
Tại Ngân hàng Techcombank, tỷ giá Yen Nhật tăng 0,66 đồng ở chiều mua và tăng 0,71 đồng ở chiều bán với mức giá lần lượt là 162,11 VND/JPY và 173,19 VND/JPY.
Tại Ngân hàng Sacombank, tỷ giá Yen Nhật tăng 0,51 đồng ở chiều mua và tăng 0,49 đồng ở chiều bán tương ứng với mức giá 166,72 VND/JPY và 171,81 VND/JPY.
Như vậy, hôm nay Sacombank là ngân hàng có tỷ giá mua Yen Nhật cao nhất và Agribank là ngân hàng có tỷ giá bán thấp nhất trong số các ngân hàng.
Dự báo USD/JPY trong ba tháng vẫn ở mức 143,00.
Thép tăng trên sàn giao dịch
Ngày 15/1, thị trường thép trong nước tiếp tục giữ nguyên giá bán. Tiêu thụ thép nội địa và thế giới dự kiến sẽ khởi sắc trong năm nay.
Giá thép giao kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng lên mức 4,089 nhân dân tệ/tấn.
Tập đoàn thép China Steel cho biết sẽ tăng giá thép tấm cán nóng và thép cuộn cán nguội từ 500 Đài tệ lên 1.000 đài tệ/tấn cho các đợt giao hàng vào tháng tới, do nhu cầu tăng vì 2 lý do: lạm phát toàn cầu ổn định và Trung Quốc mở cửa trở lại.
Theo báo cáo mới đây của Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), dự kiến tiêu thụ thép trong năm 2024 tăng 6,4%, đạt gần 21,6 triệu tấn. Trong đó, xuất khẩu thép thành phẩm và bán thành phẩm vẫn tiếp tục đà tăng trưởng ở mức tăng 12% lên gần 13 triệu tấn. Nhìn chung, triển vọng sản xuất thép của Việt Nam có thể sẽ tăng khoảng 10% trong năm 2024 nhờ kỳ vọng nhu cầu thép thế giới phục hồi.
Hiệp hội Thép Thế giới (Worldsteel) cũng chỉ ra, nhu cầu thép toàn cầu đã đạt 1,81 tỷ tấn trong năm 2023 và sẽ tăng 1,9% lên mức 1,85 tỷ tấn vào năm 2024. Trong đó, nhu cầu thép của ASEAN kỳ vọng tăng 5,2%. Hiện, ASEAN là thị trường xuất khẩu thép lớn nhất của Việt Nam, chiếm 32% thị phần xuất khẩu; EU và Mỹ đứng thứ 2 và 3 lần lượt chiếm 28% và 9%.
Sản lượng xuất khẩu cũng sẽ cải thiện trong quý đầu tiên của năm 2024 do chênh lệch giữa giá thép ở Bắc Mỹ, châu Âu so với giá thép ở Việt Nam ngày càng gia tăng.