Giải 'cơn khát' cho dân miệt núi Tân Kỳ
Nhờ nguồn vốn Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, huyện Tân Kỳ đã dẫn được những nguồn nước từ núi cao về giải “cơn khát” cho hàng ngàn hộ dân các xã Đồng Văn, Tiên Kỳ.
Nghe, thấy ở Khe Sơn
Khe Sơn là tên xóm của 322 hộ, 1.335 nhân khẩu dân tộc Thái xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ. Ngày chúng tôi đến đây, đúng dịp UBND huyện Tân Kỳ kiểm tra công trình bể chứa nước sinh hoạt thứ 7 mới xây dựng hoàn thành. Ở đó, cùng với các cán bộ huyện Tân Kỳ, cán bộ xã Đồng Văn, cán bộ nhân dân xóm Khe Sơn còn có các cháu nhỏ. Nhìn các cháu nhỏ thích thú đùa nghịch bên những dòng nước trong vắt, chạm đến niềm vui của nhân dân xóm Khe Sơn.

Cũng bên những dòng nước trong vắt ấy, anh Vi Xuân Tiếp - Xóm trưởng xóm Khe Sơn kể rằng, đã nhiều năm vấn đề nước sạch sinh hoạt của nhân dân trong xóm rất khó khăn. Đào giếng, hay kể cả khoan giếng trong vườn nhà cũng rất khó tìm được nguồn nước. Kinh tế của hầu hết người dân Khe Sơn thì hạn hẹp, với chi phí từ 25 - 30 triệu đồng/giếng khoan thì không phải hộ nào cũng có.

Ấy thế nhưng, dù có tiền thuê thợ khoan giếng thì cũng hiếm nhà tìm được nguồn nước đảm bảo để sử dụng sinh hoạt. Là dân xứ núi, quanh xóm cũng có các khe, suối để có thể tạm sử dụng, nhưng cứ đến mùa nắng nóng thì khô cạn.
Trước khó khăn về nước sinh hoạt của nhân dân, nhiều năm qua Chi bộ và Ban Cán sự xóm Khe Sơn đã đề xuất lên cấp trên tìm cách đưa nguồn nước từ núi về. Đến năm 2023, thì có được dự án như mong muốn. Từ đây, đã xây dựng được hệ thống các bể chứa, bể lắng lọc trên núi và lắp đặt hệ thống đường ống đưa nước về 7 bể chứa rải đều trong các cụm dân cư của xóm, đảm bảo cung ứng đủ cho nhân dân sử dụng.

“Có được nguồn nước từ trên núi về để sinh hoạt, nhân dân rất vui mừng. Vị trí xây dựng các bể chứa gần với nhà dân để sử dụng chung, gia đình nào có nhu cầu thì có thể thuê thợ kỹ thuật kéo đường ống nối với các van chờ đã lắp tại bể đưa nước về nhà dùng…”, Xóm trưởng Vi Xuân Tiếp vui vẻ nói.

Gia đình bà Hà Thị Đoài chỉ cách bể chứa nước số 7 chừng hơn 20m. Là hộ có kinh tế khá của xóm Khe Sơn, nên gia đình bà đã từng đào giếng, rồi thuê thợ khoan giếng để có nước sử dụng. Nhưng cũng như Xóm trưởng Vi Xuân Tiếp, bà Đoài kể rất nhiều những khó khăn về nước sạch: “Đã nhiều năm nhân dân phải sử dụng nước khe, suối. Gia đình tôi cũng vậy, phải ra khe, suối tắm giặt, gánh nước về sử dụng để sinh hoạt, ăn uống…”.

Sở dĩ thế, là vì như bà Đoài kể, ở vùng đất chỉ có đá và đá. Do đá nhiều nên đào giếng vất vả. Nhưng cực hơn nữa là dù bỏ nhiều công sức, tiền của đào sâu xuống cũng chưa chắc tìm thấy nước. Trong xóm có nhiều gia đình đào giếng nhưng không tìm được nước. Sau này có phong trào khoan thấu đá tìm nước, có gia đình khoan đến 5 - 7 lỗ khoan nhưng cũng không tìm được nước. Gia đình bà Đoài thì may mắn hơn vì khoan được đúng vị trí có nước. “Nhà tôi khoan giếng đầu tiên trong làng. Cũng đã 6 - 7 năm rồi, khi đó đã hết đến 25 triệu đồng…”, bà Đoài nói.
Hỏi bà Đoài, có nước giếng khoan rồi thì có sử dụng nước từ núi về hay không? Bà Đoài cười vui: “Có chứ. Là vùng sâu, vùng xa khó khăn thì cấp trên mới đưa nước từ bù (núi - P.V) về cho mà sử dụng. Cảm ơn cấp trên lắm. Tôi cũng đang định lắp đường ống đưa về nhà đấy. Nước từ bù về đảm bảo, lại không phải trả tiền điện…”.
Sinh ra lớn lên tại vùng đất Đồng Văn, nên Bí thư Đảng ủy xã Nguyễn Văn Khánh tỏ tường việc nhân dân “khát” nước sinh hoạt. Theo anh Khánh, xã Đồng Văn là nơi “chưa Hè đã hạn”. Trong đó, các vùng dân cư xóm Khe Sơn, xóm Đồng Tâm là khó khăn nhất. Vì những nơi này là vùng đá mọc, ngay dưới tầng đất màu là đá, nên dù có khoan sâu xuống cũng khó tìm được nguồn nước.

Rồi cho biết, qua lao động, sản xuất, nhân dân biết rõ trên dãy núi cao có bao nhiêu khe, suối; biết khe, suối nào lớn, đủ nguồn nước để có thể ngăn đập nước, xây dựng bể chứa và lắp đặt đường ống đưa nước về. Đã nhiều năm cấp ủy, chính quyền xã mong muốn cấp trên cho các xóm Khe Sơn, Đồng Tâm được thực hiện dự án đưa nước sinh hoạt từ núi về cho nhân dân. Và rồi, xóm Khe Sơn đã có dự án đưa nước về từ thác Nà Huồi trên núi Bù Khủa; xóm Đồng Tâm có dự án đưa nước về từ khe Chiềng trên núi Bù Chiềng…
Hệ thống cấp nước dẫn từ núi cao
Đứng ở rìa xóm Khe Sơn, có thể nhìn thấy dãy núi Bù Khủa. Hỏi các cán bộ huyện Tân Kỳ và xã Đồng Văn, trên núi cao vời vợi ấy, làm sao tìm được vị trí có mặt bằng phù hợp để xây dựng hệ thống bể chứa?

Bí thư Đảng ủy xã Đồng Văn, anh Nguyễn Văn Khánh kể, khi biết các xóm Khe Sơn, Đồng Tâm sẽ được thực hiện dự án nước sinh hoạt, xã đã huy động cán bộ phối hợp cùng lực lượng của các xóm lên núi, bám theo các khe Chiềng, khe Nà Huồi tìm vị trí đảm bảo đủ mặt bằng xây dựng công trình. Như ở núi Bù Khủa, từ những chuyến ngược núi đã tìm được 2 vị trí phù hợp. Sau đó, huyện Tân Kỳ tiếp tục tổ chức đoàn công tác lên khảo sát đánh giá lại, và đã quyết định chọn vị trí cao hơn, khoảng hơn 800m so với mực nước biển để đảm bảo áp suất dẫn nước về các bể chứa trong các khu dân cư.
Biết Xóm trưởng xóm Khe Sơn Vi Xuân Tiếp là người tham gia khảo sát vị trí xây dựng công trình nước trên núi Bù Khủa, chúng tôi đã nhờ anh chỉ dẫn để sử dụng flycam ghi lại hình ảnh. Sáng 10/6/2025, tiết trời trong sáng. Nhờ vậy, qua flycam thấy rõ màn nước trắng bạc của thác Nà Huồi, hệ thống tràn dâng nước và cụm công trình bể chứa.

Để chúng tôi hiểu về công trình, cán bộ Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Tân Kỳ diễn giải rằng, trên núi Bù Khủa xây dựng một tràn dâng nước cao gần 5m, cao 1,4m, bề rộng đỉnh 0,8m, có các tường chắn vai dài từ 4 -7m bằng bê tông cốt thép kiên cố. Gắn với tràn dâng nước là 1 bể chứa lớn có 3 ngăn để thực hiện các chức năng lắng, lọc và chứa. Từ bể chứa trên núi dẫn về đến 7 bể chứa của bản Khe Sơn có chiều dài lên đến 5.082m, vì vậy, tuyến ống đều sử dụng loại ống HDPE PE100-PN20 có đường kính từ 0,9mm, 0,75mm; các đường ống dẫn vào 7 bể chứa cũng sử dụng loại ống cùng chất liệu, có đường kính 0,5mm để đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt của nhân dân.

Là cán bộ của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Tân Kỳ trực tiếp thực hiện các công trình nước trên núi cao, anh Phan Văn Nhã cho biết, các công trình này gắn với mục tiêu tăng cường cơ sở vật chất, đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt phục vụ nhân dân trên địa bàn, từng bước hoàn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Từ cuối năm 2023 đến nay, cùng với 2 xóm Khe Sơn, Đồng Tâm của xã Đồng Văn, Ban còn thực hiện 2 hệ thống cấp nước tương tự ở xã Tiên Kỳ, phục vụ nước sinh hoạt đảm bảo chất lượng cho hệ thống trường học, trạm y tế… và người dân bản Chiềng, bản Phảy - Thái Minh.
Anh Phan Văn Nhã trao đổi thêm: “Tương tự công trình dành cho bản Khe Sơn, các công trình ở xóm Đồng Tâm, bản Chiềng, bản Phảy - Thái Minh cũng được xây dựng trên núi để dẫn nước về. Trên những núi cao ấy, đều phải tìm vị trí đặt công trình, chuyển tiếp vật liệu lên để xây dựng hệ thống tràn dâng nước, hệ thống bể chứa lắng lọc đảm bảo công suất cũng như chất lượng nước…”.
Rời xóm Khe Sơn chúng tôi đã ghé đến bản Phảy - Thái Minh. Ở đây, cũng được nghe kể những khó khăn về nước sinh hoạt. Do nước từ các giếng đào, giếng khoan không hợp vệ sinh, thế nên, người dân bản Phảy - Thái Minh đã rất mong chờ sự hỗ trợ của Nhà nước. Từ khoảng năm 2008 - 2009, lãnh đạo Ban Dân tộc tỉnh đã về thăm nhân dân, cùng huyện, xã khảo sát xác định trên núi cao có nguồn nước có thể đáp ứng nhu cầu của nhân dân, hướng đến thực hiện dự án nước sạch.

Thế nhưng, để đưa nước về cho một vùng dân cư rộng lớn ở xã Tiên Kỳ thì cần nguồn kinh phí không nhỏ. Giai đoạn này còn nhiều khó khăn, thế nên, chỉ lên ý tưởng nhưng chưa thể thực hiện. Nhưng cũng nhờ vậy, khi có nguồn kinh phí từ Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển KT - XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thì dự án nước được đề xuất, và được cấp trên cho phép thực hiện.
Ở bản Phảy - Thái Minh, Bí thư Chi bộ bản La Văn Đức là một trong những người ngược núi khảo sát vị trí xây dựng tràn dâng nước cùng hệ thống bể chứa. Anh Đức kể, khi biết cấp trên cho thực hiện dự án cấp nước sinh hoạt cho dân thì xã tổ chức ngay việc khảo sát. Để lên núi thì không khó, vì đã có đường mòn của người dân. Nhưng để tìm được vị trí xây dựng, và tìm hướng tuyến phù hợp lắp đặt đường ống dẫn nước về thì rất phức tạp. Lý do vì phải vượt qua nhiều những vách núi cao nguy hiểm.

“Tôi dẫn đoàn khảo sát của huyện theo đường mòn của bà con đi rừng. Với người quen đi rừng chỉ mất hơn 1 tiếng đồng hồ, nhưng với đoàn cũng mất vài tiếng. Vị trí được chọn xây dựng tràn dâng nước cao khoảng 850m, còn vị trí bể chứa thì thấp hơn một chút…”, anh Đức vắn tắt.
Ở bản Phảy - Thái Minh, cùng tiếp chuyện với Bí thư Chi bộ La Văn Đức còn có Trưởng Tiểu ban công tác Mặt trận Vi Văn Ngọc. Theo ông Ngọc, đến nay, đã bước sang năm thứ 2 nhân dân bản Phảy - Thái Minh được sử dụng nước sinh hoạt từ công trình Nhà nước đầu tư xây dựng. Nước từ núi về đảm bảo ổn định, chất lượng tốt, không như hầu hết nước giếng đào bị nhiễm vôi và phèn.

Ông Vi Văn Ngọc trao đổi: “Nhân dân rất phấn khởi vì không còn lo về nước sinh hoạt. Nước từ núi về cơ bản ổn định, đảm bảo chất lượng mà không phải tốn kém chi phí gì…”.
“Những công trình thực sự có lợi cho dân”
Là cán bộ được phân công phụ trách thực hiện những dự án đưa nước từ núi cao về cho nhân dân các xóm Đồng Tâm, Khe Sơn, bản Chiềng, bản Phảy - Thái Minh, ông Nguyễn Văn Thực - Phó Chủ tịch UBND huyện Tân Kỳ nói rằng, đây là “những công trình thực sự có lợi cho dân”.


Để thực hiện những công trình này, huyện Tân Kỳ đã cùng với Ban Dân tộc (cũ), 2 xã Đồng Văn, Tiên Kỳ khảo sát kỹ tính khả thi. Từ đánh giá chất lượng nước, khảo sát các vị trí thực hiện thi công, xác định nguồn vốn của chương trình… để từ đó đề xuất UBND tỉnh cho phép thực hiện. Quá trình triển khai, huyện Tân Kỳ đề ra những yêu cầu cao về chất lượng và tính hiệu quả. Cụ thể, yêu cầu thực hiện đảm bảo chất lượng các công trình tràn dâng nước, các bể chứa, hệ thống lọc, đường ống, đầu ra...; đảm bảo tất cả người dân có nhu cầu trong vùng thực hiện dự án phải được hưởng thụ dự án.

Đồng thời, huyện giao trách nhiệm cho Ban Quản lý dự án cũng như đơn vị tư vấn, nhà thầu phải tuyệt đối không được để dự án đầu tư thiếu hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực. Quá trình triển khai dự án, lãnh đạo huyện, các phòng liên quan và 2 xã có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, đôn đốc cả về tiến độ, chất lượng và hiệu quả của dự án. Nhờ vậy, các dự án cấp nước dù phải thi công trong điều kiện không mấy thuận lợi nhưng đều phát huy được hiệu quả, đảm bảo nhu cầu thiết yếu về nước sinh hoạt cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi 2 xã Đồng Văn, Tiên Kỳ.
Phó Chủ tịch UBND huyện Tân Kỳ Nguyễn Văn Thực trao đổi thêm: “Chúng tôi rất vui khi những dự án này phát huy hiệu quả, đã cải thiện chất lượng nước sinh hoạt, bảo vệ được sức khỏe cho bà con trong vùng thực hiện dự án. Cũng qua việc triển khai dự án, đã góp phần tạo niềm tin của nhân dân, nhất là nhân dân trong vùng được hưởng thụ dự án tin tưởng vào chính sách đặc thù của Đảng và Nhà nước…”.