GS.TSKH Phan Đăng Nhật và cuộc hồi sinh sử thi Việt

GS.TS. Nguyễn Xuân Kính ((Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam))

Theo dõi Báo Nghệ An trên Google News
(Baonghean.vn) - Đối với giới khoa học trong nước, Phan Đăng Nhật có đóng góp lớn khi ông phân biệt sử thi Việt Nam với những tác phẩm sử thi nổi tiếng của thế giới.

LTS: Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Phan Đăng Nhật sinh ra trong một gia đình yêu nước ở xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, ông gọi nhà cách mạng tiền bối Phan Đăng Lưu là bác ruột. Giáo sư Phan Đăng Nhật là một nhân cách lớn, một trí tuệ uyên bác, nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi. Ngày 24/6/2020, trái tim vị Giáo sư đáng kính đã ngừng đập, ông về với thế giới của người hiền để lại niềm tiếc thương, tri ân của bạn bè, giới nghiên cứu văn hóa về một con người tận hiến cuộc đời mình cho dân tộc.

Báo Nghệ An trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TS. Nguyễn Xuân Kính - Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, một người bạn, người đồng nghiệp của GS. Phan Đăng Nhật. Bài được lược trích từ tác phẩm: “Trên đường tìm hiểu văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam” của GS.TS. Nguyễn Xuân Kính.

Người con ưu tú làng Đông

Giáo sư Phan Đăng Nhật sinh năm 1931, tại làng Đông, xã Tràng Thành, nay là xóm Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Năm 1952, ông là giáo viên Trường cấp hai Quỳnh Thiện, huyện Quỳnh Lưu. Năm 1960, ông công tác ở Sở Giáo dục Tây Bắc. Trong thời gian gần chục năm công tác tại vùng Tây Bắc Tổ quốc, bên cạnh việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, ông còn say mê sưu tầm, tìm hiểu văn học dân gian các dân tộc ít người.

Giáo sư TSKH.Phan Đăng Nhật.
Giáo sư. TSKH Phan Đăng Nhật. Ảnh: Internet

Năm 1963, trên tập san Nghiên cứu văn học, số 2, truyện “Chàng Lú và nàng Úa” do Cầm Trọng và Phan Đăng Nhật sưu tầm được công bố. Năm 1969, ông chuyển về Hà Nội, nghiên cứu văn học các dân tộc ít người ở Vụ Miền núi thuộc Bộ Văn hóa. Từ năm 1970 đến cuối năm 1979, ông làm việc tại Viện Văn học. Từ tháng 12 năm 1979 đến năm 1999, ông công tác tại Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian, thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Viện Khoa học xã hội Việt Nam).

Năm 1984, Phan Đăng Nhật được Nhà nước phong chức danh Phó Giáo sư. Năm 1989, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa học tại Viện Hàn lâm khoa học Bungari về đề tài “Những đặc điểm cơ bản của sử thi - khan ở Việt Nam”. Từ cuối những năm 70 đến tháng 5 năm 1994, ông lần lượt được giao các nhiệm vụ quản lý: Phó Trưởng ban Ban Văn học dân gian của Viện Văn học; Thư ký khoa học Ban Văn hóa dân gian; Phó Trưởng ban Ban Văn hóa dân gian; Phó Viện trưởng, quyền Viện trưởng và Viện trưởng Viện Văn hóa dân gian. Từ năm 1985 đến tháng 2 năm 1991, ông là Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian. Từ cuối năm 1999, tuy được nghỉ hưu nhưng ông vẫn không ngừng lao động sáng tạo, tiếp tục được mời tham gia Hội đồng khoa học của Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian. Năm 2002 ông được phong chức danh Giáo sư Văn học.

Bài nghiên cứu đầu tiên của Phan Đăng Nhật là “Về việc thể hiện tính dân tộc trong sáng tác văn học các dân tộc thiểu số” viết chung với Nông Quốc Chấn, đăng trên Báo Văn hóa năm 1969, số 8 và số 10.

Phan Đăng Nhật bước vào ngành nghiên cứu văn hóa dân gian có phần muộn hơn so với nhiều tác giả khác, nhưng ông rất tích cực viết và đã được công bố không ít tác phẩm. Tính đến năm 2010, ông là tác giả của 6 cuốn sách in riêng; chủ biên, đồng chủ biên của 9 cuốn sách; là đồng tác giả của 38 cuốn sách, kỷ yếu in chung, 120 bài viết in trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Văn hóa dân gian, Tạp chí Việt Nam khoa học xã hội, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội Nhân dân, Báo Văn nghệ...

Một góc xã Hoa Thành (Yên Thành) hôm nay. Ảnh: Thái Hồng
Một góc xã Hoa Thành (Yên Thành) hôm nay. Ảnh: Thái Hồng

Chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu văn học dân gian

Những đóng góp của Phan Đăng Nhật trong việc nghiên cứu folklore được thể hiện trên nhiều phương diện.

Trước hết, Phan Đăng Nhật là một trong những chuyên gia còn hiếm hoi ở nước ta trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc ít người.

Năm 1980, cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập I do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức biên soạn được xuất bản. Cuốn sách gồm 400 trang, ba phần chính, trong đó phần văn học các dân tộc thiểu số được trình bày trong 72 trang do Nông Quốc Chấn và Phan Đăng Nhật chấp bút.

Năm 1981, cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước Cách mạng Tháng Tám 1945) của Phan Đăng Nhật được xuất bản. Ở nước ta, đây là cuốn sách đầu tiên trình bày có hệ thống về văn học dân gian các dân tộc ít người.

Có thể nói, trong sách Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, những tư tưởng của Phan Đăng Nhật về tiến trình văn học (thông qua văn học các dân tộc ít người) đã được bộc lộ. Đó là: Tiến trình từ ngôn ngữ giao tiếp đời thường đến ngôn ngữ thơ ca; Tiến trình từ thơ ca dân gian và truyện cổ tích đến truyện thơ; Tiến trình từ văn học dân gian đến văn học thành văn;...

Theo Phan Đăng Nhật, nhiều dân tộc bản địa lâu đời ban đầu ở Việt Nam có một gia tài văn hóa chung từ thời Đông Sơn, Sa Huỳnh. Sau đó, vì nhiều nguyên nhân phải phân tán, có khi cư trú rất xa nhau, thậm chí bị cắt đứt các mối quan hệ. Mặc dù vậy, những dân tộc này vẫn gìn giữ được gia tài văn hóa chung của cái thuở ban đầu. Một trong những gia tài chung ấy là thần thoại và sử thi. Với nhận thức đó, nhà nghiên cứu đã chọn một con đường riêng, khác với các bậc thầy, các bậc đàn anh trong giới folklore học Việt Nam như: Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh.

Nhưng giới nghiên cứu văn hóa dân gian trong nước và trên thế giới đều đồng nhất ở một nhận định: GS.TSKH Phan Đăng Nhật là nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi.

Sách Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam của giáo sư Phan Đăng Nhật. Ảnh tư liệu
Sách Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam của Giáo sư Phan Đăng Nhật. Ảnh tư liệu

Người làm sống lại sử thi Việt Nam

Trên con đường đi tìm sử thi Việt Nam, nhiều người phỏng đoán rằng, người Việt cổ có sử thi từ thời Văn Lang - Âu Lạc, nhưng ngày nay chỉ còn những mảnh vụn. Tình trạng này khiến nhiều người trong giới khoa học hoài nghi sự tồn tại của một hệ thống thần thoại và một nguồn anh hùng ca cổ Việt Nam.

Phan Đăng Nhật chọn một hướng đi mới. Ông bắt đầu tìm sử thi Việt Nam từ các dân tộc thiểu số, rồi sau đó mới quay về dân tộc Việt. Bài viết “So sánh một số truyền thuyết trong Đẻ đất đẻ nước của người Mường với các truyền thuyết về thời dựng nước của người Việt” (1974), cuốn sách Sử thi Ê Đê (1991), bài viết chung với Phan Ngọc “Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt - Mường” (1991) là những công trình thể hiện hướng đi này.

Từ năm 1973 đến năm 1977, GS. Phan Đăng Nhật đã sử dụng thuật ngữ Sử thi anh hùng, sử thi, sử thi - mo. Năm 1973, ông dùng thuật ngữ “sử thi anh hùng” để phân biệt với sử thi nghĩa rộng có nội dung tương ứng với thuật ngữ tự sự (ở Việt Nam đến năm 1983 mới có sự phân biệt giữa sử thi anh hùng và sử thi thần thoại do Võ Quang Nhơn đề xuất).

Năm 1986, trên Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Phan Đăng Nhật công bố bài viết “Sử thi Đam Xăn và phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian”. Theo ông, ở nhân vật Đam Xăn có ba nhiệm vụ: lấy vợ, lao động, chiến đấu giành lại vợ, trong đó chiến đấu giành lại vợ là nhiệm vụ trung tâm và chủ đạo. “Sự giàu có, sức mạnh và uy danh của Đam Xăn cũng chính là sự giàu mạnh và uy danh của làng buôn dưới quyền Đam Xăn. Chỉ có một xã hội có tính chất cộng đồng như xã hội Ê Đê vào thời đại anh hùng ca, mới có mối quan hệ đẹp đẽ này giữa anh hùng và toàn xã hội và chính mối quan hệ đó mới tạo nên không khí anh hùng ca”.

Tháng 6 năm 1989, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa học tại Bungari với đề tài Những đặc điểm cơ bản của sử thi - khan ở Việt Nam. Nếu vào cuối thập kỷ thứ ba của thế kỷ XX, Sabachier có công làm cho nước Pháp biết đến một tác phẩm sử thi Việt Nam, thì đến cuối thập kỷ thứ 9 của thế kỷ XX, với luận án này, Phan Đăng Nhật lần đầu tiên giới thiệu toàn diện, có sức thuyết phục sử thi Ê Đê, được các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận. GS. N.LNiculin, một chuyên gia về văn học Việt Nam của Liên Xô cũ và của nuớc Nga hiện nay cho rằng, “công trình khảo cứu nổi tiếng Sử thi Ê Đê của Phan Đăng Nhật có ý nghĩa khó có thể đánh giá được hết”.

Giáo sư Phan Đăng Nhật và một số tác phẩm của ông. Ảnh: Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
Giáo sư Phan Đăng Nhật và một số tác phẩm của ông. Ảnh: Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. Ảnh: Internet

Đối với giới khoa học trong nước, Phan Đăng Nhật có đóng góp lớn khi ông phân biệt sử thi Việt Nam với những tác phẩm sử thi nổi tiếng của thế giới. Tiếp thu lý luận của Mêlêtinxki - một học giả Xô viết, Phan Đăng Nhật đã phân biệt sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại với tiêu chí phân loại rõ ràng và xác đáng.

Trong các năm 1996 - 1998, GS. Phan Đăng Nhật thực hiện đề tài cấp bộ Vùng sử thi Tây Nguyên. Đề tài được nghiệm thu, xếp loại xuất sắc và cuối năm 1998, công trình nhận được giải cao (B) của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Năm 1999, công trình được Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố với tên gọi Vùng sử thi Tây Nguyên.

Nghĩ về Phan Đăng Nhật, người ta vẫn thấy trước hết ông là một chuyên gia về văn học, văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số. Trong công tác nghiên cứu, Phan Đăng Nhật luôn luôn có ý thức phục vụ chính trị và những yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Tên gọi của một số bài viết của ông đã nói lên điều này: “Nghiên cứu văn học dân gian theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ tư” (1980); “Đổi mới suy nghĩ trong việc kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số” (1986); “Hướng việc nghiên cứu văn hóa dân gian gắn liền hơn nữa với thực tiễn” (1989);...

Con đường phấn đấu đi lên của Phan Đăng Nhật là con đường đầy khó khăn, vất vả gắn liền với một quyết tâm vượt khó, chịu khổ phi thường. Sở dĩ, ông có được những đóng góp cho khoa nghiên cứu văn hóa dân gian là nhờ sức làm việc phi thường, nhờ ông “biết là học trò của các bậc, như: Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khánh, Phan Ngọc,...”.

tin mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu có một phòng trưng bày rất đặc biệt mang tên Pỉ Noọng. Đây là không gian trưng bày vật dụng truyền thống của các dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Dao, Tày… do bà Sầm Thị Bích dày công sưu tầm từ những năm 1990 cho đến nay.

Du lịch

Khát vọng phát triển du lịch miền Tây

(Baonghean.vn) - Miền Tây Nghệ An tiếp tục được quan tâm định hướng phát triển du lịch với các chương trình, dự án nhằm mang lại thu nhập và nâng cao mức sống cho người dân theo tinh thần Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Xem người Mông Nghệ An làm bánh đặc sản 'lua dúa'

Xem người Mông Nghệ An làm bánh đặc sản 'lua dúa'

(Baonghean.vn) - Ngày Tết càng đến gần cũng là dịp người Mông ở Nghệ An bắt đầu vào mùa làm bánh "lua dúa". Những chiếc bánh dẻo của cộng đồng này chủ yếu dùng để ăn trong gia đình và cũng là vật phẩm không thể thiếu trong lễ cúng của một số dòng họ.

Người dân miền Tây Nghệ An đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ đặc sản Tết qua mạng

Người dân miền Tây Nghệ An đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ đặc sản Tết qua mạng

(Baonghean.vn) - Thời điểm cuối năm, các cơ sở chế biến bò giàng, lạp xưởng (Kỳ Sơn, Tương Dương), rượu Khâu Hin (Con Cuông) và thịt chua (Quế Phong)… vừa khẩn trương đẩy mạnh sản xuất, vừa tập trung quảng bá, bán hàng qua các kênh thương mại điện tử cung ứng cho thị trường Tết.

Lạ lùng loại rau đặc sản mọc trên núi cao, sống tốt giữa mùa rét đậm ở vùng biên Nghệ An

Lạ lùng loại rau đặc sản mọc trên núi cao, sống tốt giữa mùa rét đậm ở vùng biên Nghệ An

(Baonghean.vn) - Khi gió bấc tràn về kèm những đợt mưa phùn, cái lạnh miền sơn cước như cứa vào da thịt, cũng là khi những triền núi trồng cải mẹo thẫm xanh. Càng lạnh, cây cải càng xanh tốt, càng giòn và ngon. Đây cũng là thời điểm người dân ở Kỳ Sơn, Tương Dương thu hoạch cải mẹo…

Phụ nữ Thái ở Kỳ Sơn xoay xở giữ nghề truyền thống

Phụ nữ Thái ở Kỳ Sơn xoay xở giữ nghề truyền thống

(Baonghean.vn) - Nghề dệt thổ cẩm ở bản Buộc (xã Bắc Lý, huyện Kỳ Sơn) có từ trăm năm nay. Và ngày nay, phụ nữ Thái ở bản Buộc hàng ngày vẫn cần mẫn bên khung cửi, tìm cách thay đổi mẫu mã, làm ra các sản phẩm mới để thích ứng với thị trường, giữ nghề truyền thống…