Hành trình theo chân Bác về phụng sự Tổ quốc của Kỹ sư Võ Quý Huân
Đầu đông, cái lạnh se sắt đã bắt đầu len lỏi khắp phố phường Hà Nội, tôi được gặp bà Võ Quý Yêu Hòa Bình, con gái của kỹ sư Võ Quý Huân – một trong bốn trí thức yêu nước đã cùng theo Bác Hồ trở về Tổ quốc năm 1946.
Những năm tháng làm báo sôi nổi
Cuộc gặp diễn ra trên căn gác của ngôi nhà nhỏ nằm trên phố Quang Trung, quận Hoàn Kiếm - nơi kỹ sư Võ Quý Huân làm việc những ngày ông ở Hà Nội. Trên tường, những tấm ảnh đen trắng lưu màu thời gian được đóng khung treo ngay ngắn, như nhân chứng đưa chúng tôi quay trở về với dòng ký ức của một trí thức yêu nước, đã gắn bó với những bước thăng trầm của dân tộc.
Trong câu chuyện của mình, bà Võ Quý Yêu Hoà Bình không giấu được niềm tự hào nhưng cũng đầy trầm tư khi kể về người cha kiên trung. Câu chuyện của bà không chỉ là ký ức gia đình mà còn là một phần không thể phai mờ của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Kỹ sư Võ Quý Huân sinh ra ở Đà Nẵng nhưng lớn lên ở quê nội Thanh Tùng (Thanh Chương) trong một gia đình giáo học. Vùng đất Thanh Tùng thuộc tổng Bích Hào xưa, nơi sinh ra nhiều vị khoa bảng nổi tiếng như Phó bảng Nguyễn Lâm Tuấn, Tiến sĩ Nguyễn Lâm Thái, Tiến sĩ Phạm Kinh Vĩ cùng nhiều nhà cách mạng, nhiều nhân sĩ trí thức yêu nước khác. Từ nhỏ, Võ Quý Huân được tạo điều kiện ăn học, đến năm 19 tuổi, ông được gia đình cho ra Hà Nội theo học tú tài.
Năm 1935, sau khi học xong tú tài toàn phần, Võ Quý Huân trở về Vinh, tham gia vào các phong trào đấu tranh và làm báo nhằm cổ vũ đồng bào đứng lên đòi quyền lợi với bọn thực dân Pháp. Thời kỳ này, phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ do Mặt trận dân chủ Đông Dương lãnh đạo diễn ra mạnh mẽ trên khắp cả nước. Võ Quý Huân đã tập hợp một số anh em, bạn bè cùng chí hướng ra tờ báo viết bằng 3 thứ tiếng Việt, Pháp, Hán mang tên L'activité Indochinoise (Đông Dương hoạt động). Trụ sở tòa soạn báo đặt tại số nhà 41, Boulevard Destenay, thị xã Vinh (nay là đường Phan Đình Phùng). Tờ "Đông Dương hoạt động" xuất bản vào thứ tư hàng tuần, số đầu tiên ra ngày 6/1/1937.
Thời điểm này Võ Quý Huân vừa làm Chủ nhiệm báo, kiêm Thư ký toà soạn và vừa viết bài. Ông còn kêu gọi những người bạn cùng chí hướng, cùng những người bạn của anh trai mình tham gia viết bài đăng lên báo. Tờ "Đông Dương hoạt động" thường xuyên đăng tải những bài viết mang tư tưởng dân chủ, tiến bộ, bênh vực thợ thuyền và người lao động. Đây chính là lý do khiến cho tờ báo này nhanh chóng bị cơ quan kiểm duyệt báo chí của chính quyền thực dân và mật thám Pháp đưa vào "sổ đen". Không lâu sau thì bị rút giấy phép hoạt động sau khi đã phát hành được 10 số.
Sau đó, Võ Quý Huân còn phải nhận trát mời ra hầu tòa tại Toà án xứ Bảo hộ (Bắc kỳ và Trung kỳ thuộc xứ Bảo hộ). Tuy nhiên, Võ Quý Huân lấy lý do mình sinh ra ở Tourane (Đà Nẵng) - thuộc khu vực Nhượng địa Pháp, nên chỉ có Toà án đệ nhất mới có quyền xét xử. Chính điều này đã tạo điều kiện cho ông có thời gian trì hoãn và tạm lánh sang Pháp.
Hành trình theo chân Bác về nước
Giữa năm 1937, sau khi phải buộc lánh nạn sang Pháp, Võ Quý Huân vừa đi học, vừa đi làm và còn tích cực tham gia các buổi tọa đàm chính trị, các cuộc mít tinh của phong trào bình dân do Đảng Cộng sản Pháp tổ chức. Tháng 7/1939, Võ Quý Huân đã chính thức được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp.
Cũng trong năm 1939, ông đã hoàn tất việc lấy bằng kỹ sư Cơ - Điện và được tuyển dụng vào hãng tàu thủy Compagnie Transatlantique của Pháp. Tại đây, ông quen biết nhiều thuỷ thủ, công nhân Việt kiều. Sau đó, ông tham gia và được bầu làm Thư ký Hội Pháp - Việt hữu nghị, hoạt động tích cực trong việc kết nối người Việt tại Pháp và kêu gọi hỗ trợ, ủng hộ cho nền độc lập Việt Nam.
Trong khoảng thời gian từ năm 1940 đến 1946, Võ Quý Huân còn theo học thêm để lấy các bằng Đúc - Luyện kim và Kỹ nghệ chuyên nghiệp, đồng thời theo học tiến sĩ tại Học đường Sorbonne (Paris) về Cơ lý học. Khi chỉ còn 1 năm nữa là bảo vệ Luận án tiến sĩ thì một bước ngoặt đã làm thay đổi cả cuộc đời của ông và những người thân yêu sau này.
Giữa năm 1946, khi phái đoàn của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau; và khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức nước Pháp (từ 22/6 đến 18/9/1946), với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp… Dịp này, ông Võ Quý Huân với cương vị là Phó Chủ tịch Hội Pháp - Việt hữu nghị đã đại diện cho bà con Việt kiều tham gia tiếp đón, hỗ trợ và vận động sự ủng hộ cho đoàn. Ông cũng chính là người quay và chụp lại những thước phim, bức ảnh lịch sử về phái đoàn Việt Nam trên đất Pháp.
Trong thời gian tiếp xúc và hỗ trợ phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, đặc biệt là tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khiến cho Võ Quý Huân càng thấm nhuần tư tưởng, hiểu rõ hơn khát vọng độc lập, tự do mà những con người Việt Nam yêu nước hướng đến. Sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường trở về nước.
Trước lúc rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật gặp gỡ một số trí thức tiêu biểu. Ngày 18/9/1946, trên chiến hạm Dumont d'Urville đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh rời quân cảng Toulon, ngoài 2 tùy tùng thì còn có 4 trí thức Việt kiều đã bí mật theo Người về nước, trong đó có kỹ sư Võ Quý Huân, cùng bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư mỏ Võ Đình Quỳnh và kỹ sư chế tạo máy Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa).
Rời bỏ phương Tây với mức lương ổn định, các trí thức yêu nước đã chấp nhận dấn thân vào cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc. Về nước, họ được giao những nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng nền móng công nghiệp quốc phòng, phục vụ cho kháng chiến. Trong đó, kỹ sư Võ Quý Huân được giao trọng trách là Giám đốc Sở Kỹ nghệ khoáng chất Trung Bộ, phụ trách ngành Đúc - Luyện kim. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông, chiều 15/11/1948, mẻ gang đầu tiên từ quặng sắt Vân Trì (Nghi Lộc, Nghệ An) đã được luyện thành công và từ đó những quả lựu đạn, quả mìn và nhiều loại vũ khí đã được xuất xưởng đại trà, phục vụ cho cuộc kháng chiến.
Những dấu mốc quan trọng trong những năm tháng cống hiến cho nước nhà đã được người kỹ sư yêu nước Võ Quý Huân lưu giữ lại theo một cách rất đặc biệt. Năm 1948, chào mừng mẻ gang đầu tiên ra đời, ông đặt tên người con trai đầu (của người vợ hai ông kết hôn khi về Việt Nam) là Võ Quý Gang Anh Hào; năm 1951 chào mừng mẻ thép đầu tiên được luyện thành công, ông đặt tên người con trai kế tiếp là Võ Quý Thép Hăng Hái; đến năm 1953 ông đặt tên người con gái vừa sinh là Võ Quý Yêu Hoà Bình; và năm 1955 với khát khao đất nước hưng thịnh, dù vẫn còn bị chia cắt 2 miền, ông đặt tên người con trai út là Võ Quý Quốc Hưng.
Nỗi ân hận của người cha và hành trình tìm lại nhau của hai chị em
Trong số 4 trí thức cùng Bác Hồ về nước, ông Võ Quý Huân là người duy nhất đã có gia đình. Năm 1940, ông kết hôn với người bạn gái gốc Nga tên là Irène - một chuyên gia ngôn ngữ có thể nói thành thạo 7 thứ tiếng. Năm 1944, cả hai chào đón cô con gái đầu lòng tên là Võ Quý Việt Nga.
"Ngày cha tôi lên đường theo Bác Hồ về nước, ông chỉ có 48 giờ để chuẩn bị. Lúc này bà Irène đang bận đi bảo vệ Luận án Tiến sĩ tại Paris, cha tôi chỉ kịp gửi chị Việt Nga cho một người bạn chăm sóc. Trước khi đi, cha ôm chị vào lòng và dặn rằng cha chỉ đi vài, ba tháng rồi quay về. Nào ngờ, cuộc chia tay ấy kéo dài đằng đẵng 11 năm, đến khi ông qua đời vào năm 1967 cũng không thực hiện được" - bà Hoà Bình nghẹn ngào kể.
Đôi mắt bà Hòa Bình chất chứa nỗi buồn sâu thẳm khi nhắc đến cha, người đã gác lại tình riêng để cống hiến trọn đời cho đất nước, và cả lời dặn với con gái nhỏ mà ông mãi không có cơ hội giữ trọn. "Ở phương Tây, lời hứa với con trẻ chính là lời hứa thiêng liêng nhất mà ai cũng phải giữ. Lời hứa "cha đi vài ba tháng rồi trở về" với người con gái chưa đầy 3 tuổi đã trở thành một khoảng trống không thể lấp đầy trong lòng cha và gia đình tôi" - bà nói, giọng trầm buồn.
Bà Hoà Bình vẫn nhớ như in những ngày cha mình lâm bệnh nặng phải nằm điều trị tại Bệnh viện Việt - Xô. Bà kể lại: Năm đó tôi mới 13 tuổi, thời gian trong bệnh viện, cha tôi thường lặng lẽ lấy ra một số bức ảnh, tần ngần ngắm thật kỹ rồi thở dài. Trong số đó, có bức ảnh anh trai tôi đang du học ở Cộng hòa Dân chủ Đức và một bức ảnh đứa bé tóc vàng. Một lần, không nén được tò mò, tôi hỏi cha thì ông nhẹ nhàng nói - “Đây là cháu ngoại của cha!”.
Thấy tôi ngạc nhiên, và dường như linh cảm mình không thể qua khỏi bạo bệnh, cha đã quyết định kể lại cho tôi nghe câu chuyện biệt ly đẫm nước mắt của ông trên đất Pháp. Cha bảo: “Con còn một người chị nữa hiện đang ở Pháp. Khi cha theo Bác Hồ về nước kháng chiến, cha đã hứa với bà Irène và chị Việt Nga là chỉ vài tháng sau sẽ quay lại. Vậy mà… cha đã không thực hiện được. Cha rất ân hận".
Trước lúc qua đời, cha tôi còn dặn chúng tôi nhất định phải tìm lại bà Irène và chị Việt Nga, chỉ để nói rằng cả đời này cha có lỗi với chị ấy. Cha đã không giúp được gì cho chị, từ nhỏ cho đến khi trưởng thành. Cả đến khi chị lấy chồng, nếu có của hồi môn, vị trí của chị cũng được tôn trọng hơn. Vậy mà, cha cũng không có gì cả. Cha chỉ mong chúng tôi cố gắng tìm chị. Có vậy thì cha mới an lòng nơi chín suối.
Bà Võ Quý Yêu Hoà Bình - con gái của Kỹ sư Võ Quý Huân
Thực hiện tâm nguyện của cha mình, sau này bà Hoà Bình đã quyết định tự học tiếng Pháp để có thể tìm kiếm được chị mình. Các con của bà cũng được định hướng đi du học ở Pháp để có thể hy vọng giúp mẹ tìm lại người chị gái đã thất lạc.
Bà kể rằng, sau khi tìm được địa chỉ của bà Irène từ những tư liệu cũ của cha, bà đã nhờ người viết hộ bức thư, gửi kèm các bức ảnh để gửi sang làm tin. Trong thư, bà cũng thông báo là cha đã mất và bày tỏ tình cảm với bà Irène, và chị Việt Nga.
Tuy nhiên, thư từ qua lại không nhiều, phần vì bà Irène đã già yếu và sau đó cũng mất, còn chị Việt Nga thì giữ một thái độ xa cách. "Có một lần chị Việt Nga viết trong thư rằng, với chị, hai từ Việt Nam gợi lên nỗi đau mất cha và chị không dễ vượt qua nỗi đau của quá khứ để có thể gặp lại các em..."- bà Hoà Bình kể lại.
Đầu những năm 2000, cơ hội được gặp trực tiếp chị Việt Nga của bà Hòa Bình cũng đến khi các con của bà lần lượt sang Pháp du học. Dù đã nhiều lần viết thư và bà Hòa Bình có đến 3 lần sang Pháp, nhưng một cuộc gặp mặt trực tiếp liên tục bị từ chối. Họ hiểu rằng, bà Võ Quý Việt Nga đã không dễ dàng quên đi được nỗi đau thiếu vắng người cha trong quá khứ.
Đến tháng 10/2007, trong lần thứ tư sang Pháp, bà Hòa Bình quyết tâm tìm gặp bằng được chị mình. Bởi bà hiểu có thể đây là lần cuối cùng, vì các con mình cũng sắp ra trường và quay về nước. Khi biết được bà Việt Nga sau khi nghỉ hưu đã về sống ở một ngôi làng cách Paris khoảng 500km, mẹ con bà Hòa Bình quyết định thuê taxi tự tìm đến mà không báo trước với suy nghĩ nếu lần này vẫn bị từ chối gặp mặt thì sẽ về luôn.
Ngày hôm đó, cuộc gặp gỡ bất ngờ đã khiến bà Võ Quý Việt Nga sững lại. Không thể từ chối tình cảm ruột thịt, hai chị em ôm chầm lấy nhau trong nước mắt.
"Sau những xúc động ban đầu, chị hỏi tôi, cha làm việc vất vả lắm phải không?" - bà Hòa Bình nhớ lại: "Sau đó tôi đã kể cho chị nghe lời trăn trối trước khi cha đi xa, rằng cha rất nhớ bà Irène và yêu chị. Cha đã rất ân hận cho đến lúc mất vì đã không trở lại với hai mẹ con chị và dặn phải tìm lại chị để hàn gắn lại tình cảm mà khi còn sống tâm nguyện này của cha chưa thể thực hiện”…
Sau đó, bà Hoà Bình được người chị gái Võ Quý Việt Nga dẫn đi xem một căn phòng chứa đầy những sách, ảnh, thư từ, là những kỷ vật mà người cha đã để lại trên đất Pháp cũng như gửi sang từ Việt Nam.
Giờ đây, tình thân đã được nối lại, nhưng có một điều mà bà Võ Quý Hoà Bình vẫn đang đau đáu trong lòng. Đó là được đón gia đình chị gái mình sang thăm Việt Nam, để thắp một nén hương lên mộ cha; để được cùng nhau bước đi trên con đường mang tên Võ Quý Huân ở Thủ đô Hà Nội. Và nữa, là cùng về thăm quê nội Thanh Chương để hiểu hơn và yêu hơn mảnh đất quê hương, nơi đã sinh ra người cha kính yêu - một người trọn nghĩa, vẹn tình với đất nước...