Khách hàng ngại kiểm tra, đem trả lại ngân hàng tiền hỗ trợ lãi suất
Một số khách hàng đã được nhận hỗ trợ lãi suất, song hiện tại đã chủ động hoàn trả ngân hàng toàn bộ số tiền lãi được hỗ trợ.
Dư hơn 37 nghìn tỷ đồng không sử dụng đến
Chính sách hỗ trợ lãi suất (HTLS) từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP là một trong các chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tích cực triển khai từ khi chính sách được ban hành tới nay.
Theo số liệu do NHNN công bố, đến cuối tháng 3/2023, doanh số HTLS đạt gần 91.000 tỷ đồng, dư nợ HTLS đạt gần 51.000 tỷ đồng, số tiền đã hỗ trợ cho khách hàng đạt 327 tỷ đồng cho gần 1.900 khách hàng.
Căn cứ thực tế triển khai, các khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện và đánh giá khả năng giải ngân HTLS, các NHTM đã dự kiến số tiền HTLS luỹ kế từ đầu chương trình đến hết năm 2023 đạt khoảng 2.570 tỷ đồng.
Trong đó, số tiền HTLS năm 2022 là khoảng 135 tỷ đồng, dự kiến số tiền HTLS năm 2023 là khoảng 2.435 tỷ đồng.
Doanh nghiệp không mặn mà với Chương trình hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách nhà nước. |
Như vậy, số dự kiến không sử dụng hết của chương trình là 37.430 tỷ đồng (năm 2022 là 15.900 tỷ đồng, năm 2023 là 21.530 tỷ đồng).
Kết quả trên rõ ràng là chưa đạt được như kỳ vọng. NHNN cho biết, việc triển khai gói tín dụng HTLS từ nguồn ngân sách nhà nước gặp một số khó khăn, vướng mắc dẫn đến kết quả không được như ý muốn.
Có khách hàng trả lại tiền hỗ trợ lãi suất
Thậm chí, khách hàng đủ điều kiện nhưng từ chối nhận HTLS, chủ yếu là do tâm lý e ngại thanh, kiểm tra (nhất là khách hàng doanh nghiệp).
Khách hàng cân nhắc giữa lợi ích của việc HTLS 2% và chi phí bỏ ra để nhận HTLS (theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, kiểm tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
Ngoài ra, khách hàng cũng lo ngại trong trường hợp sau này bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền HTLS thì rất khó xử lý vì lúc đó số tiền HTLS đã hạch toán lợi nhuận/chia cổ tức cho cổ đông.
“Thực tế, một số khách hàng đã được nhận HTLS, song hiện đã chủ động hoàn trả NHTM toàn bộ số tiền lãi đã được HTLS”, NHNN cho hay.
Về cơ chế chính sách, NHTM và khách hàng gặp khó trong đánh giá liên quan đến quy định “có khả năng phục hồi” tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, và khoản 4 Điều 3 Nghị định 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ.
Cụ thể, qua báo cáo và khảo sát thực tế tại các NHTM và các khách hàng, NHNN nhận thấy bản thân các khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ, song cũng không dám khẳng định “có khả năng phục hồi”.
Tiêu chí “có khả năng phục hồi” lại được thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như: doanh thu, sản lượng, lợi nhuận tăng, hoặc các tiêu chí định tính như: đánh giá diễn biến, chiều hướng kinh doanh của khách hàng.
Trong khi đó, các đánh giá theo tiêu chí trên được cho là khó trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn, trong khi nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc tế.
Trường hợp khẳng định hoặc đánh giá các tiêu chí doanh thu, sản lượng, lợi nhuận tăng nhưng thực tế do tác động của nhiều yếu tố bất định dẫn tới các chỉ số này không tăng thì các NHTM và khách hàng e ngại sẽ bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra sau này đánh giá trục lợi chính sách.
Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu, lợi nhuận trong giai đoạn dịch cao hơn hiện tại, nên rất khó để đánh giá đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
Đó là với khách hàng doanh nghiệp, trong khi đó nhiều hộ sản xuất, kinh doanh không đăng ký hộ kinh doanh theo quy định nên cũng không thuộc đối tượng hỗ trợ.
Khách hàng có năng lực tài chính, có lịch sử tín dụng tốt, được các NHTM cho vay với lãi suất ưu đãi nên từ chối nhận HTLS do tự đánh giá đã được vay với lãi suất phù hợp theo các chương trình ưu đãi của NHTM.
Ngoài ra, một số khó khăn khác như khách hàng xuất khẩu lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ nên không thuộc đối tượng được HTLS; một số khách hàng được hỗ trợ theo các chương trình tín dụng của ngân sách địa phương; khó khăn trong bóc tách chi phí vốn đa ngành nghề; một số khách hàng có dư nợ hiện hữu thuộc ngành được HTLS nhưng lại đang quá hạn nên tạm thời chưa được xem xét HTLS theo quy định…