Kinh tế và văn hóa xứ Nghệ thời Hậu Lê

(Baonghean.vn) - Xứ Nghệ thời Hậu Lê gắn liền với 400 năm lịch sử phức tạp và khắc nghiệt của đất nước. Khó khăn nhiều hơn thuận lợi, nhưng hình như đây là thời kỳ các thế hệ người Nghệ đã định hình phẩm chất của cộng đồng, tích cực tự hoàn thiện mình để trưởng thành, và có nhiều đóng góp quan trọng vào tiến trình lịch sử, văn hóa của dân tộc.

Nhiều phen binh lửa

Hậu Lê kéo dài từ đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, xen giữa là mấy chục năm của nhà Mạc. Thời kỳ này, xứ Nghệ tiếp tục quá trình tụ cư, không chỉ của người Việt/Kinh từ vùng Bắc Bộ, Thanh Hóa vào mà còn là các tộc người Thái, Mông… từ phương Bắc xuống; là quá trình hình thành tộc người Thổ. Đồng thời là quá trình tiếp tục thiên di vào phương Nam cùng với việc mở mang bờ cõi, nhất thời chúa Nguyễn.

Mặc dù không còn là biên giới phía Nam của quốc gia, nhưng với vị thế địa chính trị - an ninh đặc biệt của mình, xứ Nghệ vẫn là nơi có nhiều chiến sự nhất bởi sự tranh giành của các thế lực, từ cục diện Nam - Bắc triều đến Đàng Trong - Đàng Ngoài, rồi phong trào Tây Sơn và rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình. Nhân dân điêu linh vì chiến tranh. “Nghệ An nhiều phen bị nạn binh lửa. Các huyện đồng ruộng bỏ hoang, nhân dân đói khổ. Dịch tễ lại phát sinh, người chết đến quá nửa. Nhân dân xiêu dạt, hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ An đìu hiu vắng tanh” (Cương mục). Sự phát triển kinh tế, văn hóa của vùng đất này vì thế  gặp vô cùng nhiều trở ngại.

Bản đồ Việt Nam khoảng năm 1760, vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam. Đàng Trong được gọi là Cochinchine.
Bản đồ Việt Nam khoảng năm 1760, vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam. Ảnh: wikipedia

Nền kinh tế trồi trụt

Sau chiến tranh giải phóng, bước sang thời Lê sơ, kinh tế nông nghiệp của Nghệ An được phục hồi và có bước phát triển. Việc khai hoang phục hóa được đẩy mạnh nhất là vùng ven biển và trung du. Chính sách “ngụ binh ư nông” của Nhà Lê đã khuyến khích các quan lại và dân chúng tổ chức khai khẩn, lập nhiều đồn điền,  làng mạc mới như: cha con Nguyễn Xí - Nguyễn Sư Hồi ở vùng Nghi Lộc, Nghi Xuân; Nguyễn Biên ở vùng Cẩm Xuyên; Lê Khôi (Chiêu Trưng) vùng Thạch Hà; Nguyễn Nhâm Mỗ vùng Nam Đàn… Chính sách cho phép lập đồn điền của Lê Thánh Tông năm 1481 “cốt để hết sức vào việc làm ruộng rộng nguồn tích trữ cho Nhà nước” (Toàn thư). Thừa tuyên Nghệ An lúc này có 4 sở là: Đồn điền Hà Hoa (vùng Tây Nam Thạch Hà); đồn điền Đức Quang (Tây Bắc Ngàn Trươi, xuống đến La Sơn/Đức Thọ); đồn điền Anh Đô (vùng Tây Nam Anh Sơn lên Con Cuông); đồn điền Diễn Châu. Nhân công các đồn điền chủ yếu là tù nhân, tội phạm, quân lính đồn trú và dân nghèo.

Thủy lợi được quan tâm, có chức quan Hà đê sứ trông nom việc đê điều, trị thủy và nông nghiệp từ phủ, huyện. Ở xã thì có chức xã trưởng lo việc này. Nhờ đó, nhiều công trình thủy lợi lớn được xây dựng như kênh Xước, kênh Tang (Quỳnh Lưu), kênh My (Yên Thành), các kênh Thiết, Hương Cái, Đích (Hưng Nguyên), kênh Na (Cẩm Xuyên), kênh Lạc (Kỳ Anh). Kênh Nhà Lê tiếp tục đào thêm hoặc nạo vét vào tận đèo Ngang.

Kênh Nhà Lê tại Nghệ An được xếp hạng di tích Quốc gia. Ảnh: Sách Nguyễn
Kênh Nhà Lê tại Nghệ An được xếp hạng di tích Quốc gia. Ảnh: Sách Nguyễn

Sang các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, do các biến động chính trị nên nông nghiệp ở Nghệ An bị tàn phá và sa sút, dân cư phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang. Người nông dân phải nỗ lực sản xuất để tự nuôi sống mình và nộp thuế, các làng mạc không còn trù phú như xưa.

Về thủ công nghiệp, thời kỳ Lê sơ, do tình hình chính trị xã hội ổn định nên có bước phát triển khá nhanh. Vùng đồng bằng phát triển các nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa/vải, làm gốm, rèn sắt, đúc đồng, mộc, đan lát. Ven biển có nghề đánh cá, đóng thuyền, dệt chiếu, làm muối, nước mắm… Miền núi có nghề sơn tràng, nghề gốm, rèn sắt, đan lát…

Một số sản phẩm thủ công nghiệp thời kỳ này có kỹ thuật và đạt chất lượng khá cao như: lụa Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu),  sắt Nho Lâm, rèn Vân Chàng (Đức Thọ), gốm chợ Bộng (Đông/Yên Thành), Cẩm Trang (Đức Thọ), chiếu Thiên Lộc (Can Lộc)… Một số làng nghề hình thành như: Nhân Lý, Quỳnh Đôi, Phượng An, Hoàn Nghĩa (Quỳnh Lưu); Hoàng Lệ (Kỳ Anh); Đồng Môn, Đại Tiết, Hà Hoàng… (Thạch Hà); Việt Yên, Yên Hồ, Hoa Lâm (La Sơn/Đức Thọ); Quang Trung, Trung Phường (Đông/Yên Thành)…

Dưới thời Lê, thương mại của Nghệ An có sự vận động song cùng với sự phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và các yếu tố chính trị xã hội khác. Thời kỳ Lê sơ, nông nghiệp, thủ công có phần phát triển hơn nhưng buôn bán vẫn nhỏ lẻ, nhìn chung vẫn là kinh tế tự cung, tự cấp. Ở Nghệ An, thời Lê trung hưng, binh đao chiến tranh liên miên, nông nghiệp đình đốn, thủ công nghiệp phát triển chậm. Dù vậy, trong xu thế chung của cả nước, lại tranh thủ thời gian hòa hoãn của các thế lực nên sinh hoạt thương mại đã có sự chuyển biến. Hệ thống chợ làng được mở rộng. Các chợ phủ, chợ huyện được mở ngày càng nhiều. Với lợi thế hệ thống cửa biển tự nhiên và kênh đào chạy suốt theo dọc bờ biển, một số cảng thị như: Diễn Châu, Hội Thống, Cửa Sót, Nhượng Bạn… tiếp tục hoạt động. Đặc biệt, từ thế kỷ XVII, phố Phù Thạch, hữu ngạn sông Lam, đối diện với Lam thành, đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của Nghệ An. Tại đây có nhiều tàu bè nước ngoài vào buôn bán; có phố người Hoa (Minh Hương) sang đây định cư và buôn bán.

Một nền văn hóa sánh vai cùng “tứ trấn”

Nghệ An, đến thời Trần, vẫn là đất “trại”, một vùng biên viễn chưa phát triển, mức độ giáo hóa còn thấp. Bước sang thời Hậu Lê, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục của Nghệ An đã có bước phát triển, đặt nền tảng vững chắc cho tiến trình văn hóa của vùng đất này, để từng bước xác lập vị thế  là một trung tâm văn hóa của cả nước.

Về giáo dục khoa cử, đã có các trường lớp dạy chữ, người học và biết chữ ngày càng đông. Thời Lê, Nghệ An có trường thi hương ở Lam Thành. Số người học giỏi, đỗ đạt ngày càng nhiều. Theo thống kê thì thời Lê sơ,  Nghệ An (cũ) có 51 người, thời nhà Mạc có 23 người, Lê Trung hưng có 68 người đỗ đại khoa. Khoa Nhâm Thìn (1590) hai cha con Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa (Lý Trai, Đông Thành) cùng đỗ. Khoa Bính Thìn (1756) hai anh em Lê Sĩ Triêm, Lê Sĩ Bàng (Nội Thiên Lộc, Thiên/Can Lộc) cùng đỗ. Ba cha con cùng đỗ như nhà Phan Huy Cận và hai con là Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn. Có nhiều dòng họ được tôn vinh dòng họ khoa bảng như: họ Hồ, họ Phan Huy, họ Nguyễn Huy…

Đường vô xứ Nghệ (ảnh chụp tại Cầu Cấm). Ảnh tư liệu: Nguyễn Thanh Hải
Đường vô xứ Nghệ (ảnh chụp tại Cầu Cấm). Ảnh tư liệu: Nguyễn Thanh Hải

Trên nền tảng giáo dục, văn học, sử học thời kỳ này xuất hiện nhiều tác giả nổi tiếng, nhiều tác phẩm nổi bật. Về văn học có Dao đình sử tập của Hồ Sĩ Đống; Dưỡng hiên vịnh sử thi của Phạm Nguyễn Du; Nguyễn Thám hoa thi tập của Nguyễn Huy Oánh. Về lịch sử có Việt giám vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm, Việt sử bị lãm của Nguyễn Nghiệm; Trung hưng thực lục của Hồ Sĩ Dương; Liệt truyện đăng khoa khảo và Khoa bảng tiêu kỳ của Phan Huy Ôn… Ở xứ Nghệ, cuối thế kỷ XVIII đã hình thành Hồng Sơn văn phái với nhiều tác gia và tác phẩm nổi tiếng, trong đó có nhiều người thuộc các dòng họ Nguyễn - Tiên Điền, Nguyễn Trường Lưu và Phan Huy Thu Hoạch như: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản, Nguyễn Hành, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Vinh, Nguyễn Huy Hào, Phan Huy Ích…

Đặc biệt, đây là giai đoạn hoàn thiện và phát triển của dân ca ví, giặm, trong đó nổi bật nhất là hát Phường vải và hát ả đào/ca trù. Các tri thức dân gian về thiên văn, y học, ẩm thực…, được tích lũy và đúc kết.

Cùng với nền tảng tư tưởng chính trị Nho giáo, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng  phong phú hơn. Bên cạnh Phật giáo và các tín ngưỡng bản địa truyền thống, lúc này có thêm tín ngưỡng thờ Mẫu (Mẫu  Tam phủ và Mẫu Tứ vị thánh nương) và Ki tô giáo. 4 ngôi đền: “Cờn, Quả, Bạch mã, Chiêu Trưng” - được xem là linh thiêng nhất xứ Nghệ đều lập vào thời này.

tin mới

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

(Baonghean.vn) - Thấu hiểu nỗi đau của những người vợ mất chồng, của con mất cha nơi biển lớn, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tại vùng biển Quỳnh Lưu đã tích cực đồng hành với những người phụ nữ yếu thế, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

(Baonghean.vn) - Hiếm có một vùng quê nào lại có nhiều người đỗ đạt thành danh và có nhiều di tích được xếp hạng như xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Nắm bắt lợi thế đó, gần đây địa phương này đã tiên phong phát triển du lịch, với những tour du lịch mang nhiều ý nghĩa.

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Lễ hội Hang Bua ở huyện Quỳ Châu là một sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Thái phía Tây Bắc Nghệ An. Sinh hoạt văn hóa này cũng là không gian lưu giữ những nét truyền thống của cư dân bản địa vừa góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

(Baonghean.vn) - Lễ hội Đền Cờn năm 2024 có nhiều hoạt động, trò chơi dân gian, nhưng đặc sắc nhất là tục chạy ói với màn rước kiệu, tung kiệu bay trên biển. Tục chạy ói thường được tổ chức vào sáng ngày 21 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, là nghi lễ quan trọng với ngư dân vùng biển.

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

(Baonghean.vn) - Nằm ở ngã ba sông, nơi hợp lưu của dòng Nậm Nơn và Nậm Mộ để hình thành nên dòng sông Cả kỳ vĩ bồi đắp cho vùng hạ du, đền Vạn - Cửa Rào được xem là ngôi đền linh thiêng nhất miền Tây xứ Nghệ. Sáng 1/3 (20 tháng Giêng), người dân muôn phương đã nô nức dự Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào.

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Hang Bua là thắng cảnh tự nhiên nằm trong dãy núi đá vôi “Phà Én” thuộc xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, cách thành phố Vinh 170km về phía Tây Bắc. Lễ hội Hang Bua là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào các dân tộc của huyện nói riêng và vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung.

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu có một phòng trưng bày rất đặc biệt mang tên Pỉ Noọng. Đây là không gian trưng bày vật dụng truyền thống của các dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Dao, Tày… do bà Sầm Thị Bích dày công sưu tầm từ những năm 1990 cho đến nay.