Kỳ 2: Ly hương và... ly tán!
Những người rời quê đi làm ăn xa có thu nhập ổn định, tích lũy được đồng vốn cho tương lai, nhưng con cái không được chăm sóc chu đáo, thậm chí vợ chồng có nguy cơ ly tán. Và khi trở về quê họ lại phải đối mặt với không có việc làm hoặc đi làm với đồng lương quá thấp, không đủ tiền nuôi con ăn học.

Tác giả: Thanh Nga – Mỹ Hà – Diệp Thanh
Ngày xuất bản: 23/6/2025 - Kỹ thuật: Diệp Thanh
Những người rời quê đi làm ăn xa có thu nhập ổn định, tích lũy được đồng vốn cho tương lai, nhưng con cái không được chăm sóc chu đáo, thậm chí vợ chồng có nguy cơ ly tán. Và khi trở về quê họ lại phải đối mặt với thực trạng không có việc làm hoặc đi làm với đồng lương quá thấp, không đủ tiền nuôi con ăn học.

Tại xã Châu Khê (Con Cuông), một địa phương biên giới nơi phần lớn cư dân là người di dân từ huyện Nam Đàn lên từ năm 1960. Trong số 135 hộ dân với 637 nhân khẩu của thôn 2/9, có tới 77 người đi xuất khẩu lao động. Toàn xã ghi nhận khoảng 250 người đang làm việc ở nước ngoài, chủ yếu qua kênh giới thiệu người thân. Trong bối cảnh đất sản xuất ít, đầu ra nông sản không ổn định, thì xuất khẩu lao động trở thành lựa chọn gần như tất yếu.

Anh Nguyễn Thế Anh – Phó Chủ tịch UBND xã Châu Khê nhìn nhận: 10 năm trở lại đây, khi phong trào xuất khẩu lao động khởi sắc, có nhà đi cả vợ, cả chồng, mỗi năm mỗi người gửi về cho gia đình ở quê từ 100 – 120 triệu đồng. Trong 5 năm, số hộ nghèo của xã giảm từ 20 xuống còn 6 hộ. Tuy nhiên, hệ lụy thì cũng nhiều, đó là tình trạng ly hôn, con cái để lại cho ông bà dạy dỗ, mà kỹ năng của ông bà thì không phù hợp thời đại, thế nên, đa phần các cháu phải tự thân vận động. Con cái không được kèm cặp học hành, thường học xong phổ thông chỉ nghĩ đến kiếm tiền, không có động lực học tiếp. Chỉ trong năm 2024, xã có 10 cặp kết hôn nhưng có tới 24 cặp ly hôn, chưa kể những cặp ly thân...
Bà Phạm Thị Hòa – Bí thư Chi bộ thôn 2/9, xã Châu Khê cho biết: “Cả thôn chỉ có khoảng 7 lao động đang làm ở Công ty May Minh Anh Con Cuông, còn nữa là vào Nam, ra Bắc hoặc đi xuất khẩu lao động. Gia đình tôi cũng có 2 con trai đi xuất khẩu lao động, 1 cháu ở Nhật Bản, 1 cháu ở Hàn Quốc. Người ở làng giờ chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em. Nhiều gia đình đi cả hai vợ chồng, có nhà có 4 người con đều tham gia xuất khẩu lao động, để lại con cái cho ông bà nuôi. Mặc dù có những lao động chỉ kiếm được 20 – 30 triệu đồng/tháng nơi xứ người, tiền gửi về cùng lắm chỉ 50 – 100 triệu đồng/năm nhưng vẫn phải bươn chải đã 5-7 năm chưa về ”.
Ông Vi Trung Định - Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông chia sẻ, dù dân số xã lên đến hơn 6.300 người, 85% là đồng bào dân tộc Thái, nhưng chỉ còn chưa tới 30 người làm việc tại công ty trong huyện, trong khi cả địa bàn xã có gần 200 người đi xuất khẩu lao động.

Tại xã Thạch Ngàn có nhiều nhà tham gia xuất khẩu lao động, cuộc sống từ đó cũng đổi thay, nhiều gia đình vươn lên khá giả, nhưng những hệ lụy cũng không phải là ít. Anh Hoàng Bá Thái – Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn Thạch Tiến dẫn chúng tôi đến một ngôi nhà cao ráo, khang trang. Anh Phạm Thạch Hùng chủ nhân của ngôi nhà cho biết: “Tôi đi xuất khẩu lao động ở Dubai 9 năm, mới về hơn 1 tháng. Hai con tôi giờ cũng đang đi Đài Loan. Tôi thấy xuất khẩu lao động là cách làm giàu nhanh nhất. Đi mấy năm về có vốn, mới cải thiện được cuộc sống. Giờ tôi quay lại làm nông, nuôi bò, trồng sắn, keo... Anh Hùng nói tiếp: “Việc tham gia xuất khẩu lao động cho thu nhập cao nhưng phải đánh đổi. Nhiều người đi về vợ chồng ly hôn, con cái ly tán. Có nhà bồ bịch, ghen tuông, thậm chí đã xảy ra án mạng vì hệ lụy xuất khẩu lao động”.
Được biết, thôn Thạch Tiến có tới 60 người tham gia XKLĐ, tuy đời sống có khấm khá lên, nhưng nhiều gia đình vợ chồng, con cái bị mất sự kết nối.

Bà Hoàng Thị Lương (sinh năm 1973) đang thay con chăm cháu ngoại 3 tuổi, bà nói: “Con gái tôi đi xuất khẩu cùng chồng, chứ đi một mình dễ bỏ nhau lắm. Cuộc hôn nhân đầu của nó tan vỡ vì chồng đi xuất khẩu lao động một mình rồi cặp bồ với người khác. Một đứa con trai nữa của tôi cũng vừa đi Đài Loan. Nó bảo muốn kiếm tiền nhanh để hỗ trợ bố mẹ, không muốn đi học nữa”...
Có thể nói, diện mạo mới của một số vùng quê đang đổi thay chóng mặt vì xuất khẩu lao động. Kinh tế khấm khá lên, nhà cửa khang trang hơn, nhưng trong những mái nhà ấy lại thiếu vắng sự gắn bó bền vững của các thành viên gia đình. Phía sau những đồng tiền gửi về là những khoảng trống về tình cảm, sự giáo dục và kết nối cộng đồng – những khoảng trống không dễ gì lấp đầy.

Chị Nguyễn Thị Thảo cùng chồng là Hồ Văn Lâm ở thôn 2/9, xã Châu Khê (Con Cuông) từng tìm việc tại quê nhà nhưng với thu nhập công nhật chỉ ngày chưa đến 70.000 đồng, nên cuộc sống vô cùng vất vả. 3 năm trước anh Lâm tham gia XKLĐ ở Đài Loan với số chi phí ban đầu 150 triệu đồng, sau 1 năm đã có số tiền tích lũy hơn 100 triệu đồng. Chị Thảo sau đó cũng sang Đài Loan với chồng, để lại con cái cho bà ngoại chăm nuôi.

Chị Thảo và anh Lâm là một trong nhiều trường hợp ở nhà làm không đủ ăn nên phải đi XKLĐ, hoặc đi làm ăn xa mong có chút tiền ổn định cuộc sống sau này. Nói về điều này, Phó Chủ tịch UBND xã Châu Khê Nguyễn Thế Anh cho biết: Chúng tôi từng kỳ vọng khi có Nhà máy Minh Anh về sẽ giải quyết tốt bài toán thất nghiệp cho lao động địa phương. Nhưng khi đầu quân vào đây chỉ chưa đầy 2 tháng nhiều lao động đã bỏ dở vì mức lương quá thấp, chưa đầy 4 triệu đồng/người/tháng. Bởi thế, phần lớn lao động trẻ lựa chọn rời quê, tìm đến các khu công nghiệp phía Nam hoặc ra nước ngoài làm việc nếu gia đình vay được vốn ban đầu để chịu phí xuất cảnh. Cũng với thực trạng trên, ông Vi Trung Định – Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Ngàn (Con Cuông) cho biết: “Lúc Công ty May Minh Anh Con Cuông mới mở, từng thu hút đến 150 công nhân trên địa bàn, nhưng lương thấp quá nên họ nghỉ hết”.

Năm 2020, anh Vừ Bá Sơn và vợ là chị Mùa Y Nu ở bản Trường Sơn, xã Nậm Cắn (Kỳ Sơn) ra Hà Nội làm thuê. Vài tháng sau, nghe tin ở tỉnh Bình Dương dễ làm ăn hơn, vợ chồng anh Sơn lại dắt díu nhau vào. Hai vợ chồng xin vào làm việc cho một cơ sở sản xuất bàn ghế sô pha, thu nhập mỗi tháng trừ ăn, uống được 10 triệu đồng. Nhưng cũng chỉ được mấy tháng, làm không nổi, vợ chồng lại kéo nhau về quê. Về quê vì không có chỗ làm với thu nhập tương tự, nên vợ chồng anh Sơn lại tìm vào Bình Phước để cạo mủ cao su với mức thu nhập 15 triệu đồng/ tháng...
Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Kỳ Sơn, ông Thò Bá Rê thì: Đúng là vấn đề giải quyết việc làm cho lao động thuộc các địa bàn vùng sâu, vùng xa đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bởi trước đây người dân có thể bám nương, bám rẫy, bám rừng để sống, nhưng bây giờ thì không thể, nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng khiến họ muốn đi làm ăn xa để có thêm đồng vốn lo liệu tương lai. Điều trăn trở của chúng tôi là lượng lao động đổ vào Nam, ra Bắc và đi XKLĐ rất nhiều, trong khi trên địa bàn tỉnh hiện đang rất cần lao động thì họ không lựa chọn.

Tuy nhiên, ông Rê cũng cho biết, huyện Kỳ Sơn đã từng nỗ lực thu hút đầu tư, đưa nhà máy về nhưng bất thành. Điển hình là huyện đã quy hoạch cụm công nghiệp nhỏ ở xã Chiêu Lưu, nhưng 20 năm qua chưa thu hút được doanh nghiệp nào vào; vì với địa hình đồi núi dốc, huyện Kỳ Sơn rất khó có thể có được một điểm quy hoạch đủ rộng để doanh nghiệp xây dựng nhà máy quy mô vài trăm lao động, chứ chưa nói đến điều kiện sân bãi và các công trình phụ trợ.
Tại huyện Con Cuông, dù Nhà máy May Minh Anh đã đi vào hoạt động ở xã Chi Khê hơn 1 năm, thu hút được 1.000 lao động trên địa bàn với mức lương khởi điểm từ 4 – 7 triệu đồng/tháng. Ban đầu nhiều lao động hăm hở từ khắp nước trở về để đầu quân vào nhà máy. Họ hy vọng với mức lương khởi điểm trên 4 triệu đồng cộng với việc tăng ca kíp cũng có thể lên đến 7- 8 triệu đồng/tháng, nhưng vì đơn hàng ít nên sau nhiều tháng mức lương vẫn không được cải thiện.

Bà Vi Thị Nguyệt – Phó phòng Nội vụ huyện Con Cuông cho biết: Chúng tôi đã rất nỗ lực để có thể đưa được việc làm về cho con em quê hương, nhưng thú thật đến bây giờ lượng công nhân là con em trên địa bàn không nhiều. Chính quyền địa phương đã tìm nhiều phương án để kết nối cung - cầu lao động, khi doanh nghiệp bước vào sản xuất những lứa công nhân đầu tiên đi làm ở nhà máy chúng tôi đã trực tiếp đến để trao đổi với người quản lý về việc giao tiếp và cách thức truyền đạt với người lao động, vì ở chừng mực nào đó, bà con vẫn mang những đặc tính của đồng bào dân tộc thiểu số như dễ tự ái, thiếu tính kỷ luật. Rồi vấn đề chất lượng bữa ăn ca, mức thu nhập tối thiểu cũng được chúng tôi đề xuất nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động. Nhưng bà con vẫn cho rằng, mức lương quá thấp, nên rất nhiều công nhân bỏ việc sau vài tháng.
(Còn nữa)