Một số kết quả Hội nghị Trung ương 5 (Khoá XI)
Hội nghị Trung ương 5 đã thông qua nội dung bốn Kết luận và một Nghị quyết đó là: Kết luận về “Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”; Kết luận về “Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”; Kết luận về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”
Hội nghị Trung ương 5 đã thông qua nội dung bốn Kết luận và một Nghị quyết đó là: Kết luận về “Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”; Kết luận về “Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”; Kết luận về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, sau 9 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, trong không khí dân chủ, đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) họp từ ngày 7 đến 15-5-2012 đã hoàn thành nội dung chương trình đề ra.
Toản cảnh Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI). Ảnh KT
Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua nội dung bốn Kết luận và một Nghị quyết với sự thống nhất cao, đó là: Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”; Kết luận Hội nghị Trung ương 5 về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”.
Dưới đây là một số nội dung cơ bản đã được Hội nghị Trung ương bàn và thông qua.
I. Tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992
1. Về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới, là đạo luật cơ bản của Nhà nước, văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, thể hiện bản chất dân chủ tiến bộ của Nhà nước, chế độ ta. Việc thi hành Hiến pháp năm 1992 trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên sau 25 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta đã có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu rộng, dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng được mở rộng nên nhiều quy định của Hiến pháp đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp.
2. Những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phải dựa trên kết quả tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và kế thừa những quy định còn phù hợp của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, đồng thời phải quán triệt đầy đủ mục đích, yêu cầu, quan điểm, định hướng nêu trong Nghị quyết Trung ương 2, khóa XI, Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, đã có đủ cơ sở, tạo được sự thống nhất cao về cơ bản. Hội nghị Trung ương 5 đã tán thành những nội dung sửa đổi sau:
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
Căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011. Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh), việc sửa đổi Hiến pháp phải thể hiện đầy đủ quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện của nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
- Sửa đổi Hiến pháp 1992 để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước
Khẳng định và thể hiện rõ tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực để phát triển đất nước; huy động các lực lượng xã hội trong và ngoài nước, củng cố và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc và Công đoàn và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
Các ý kiến thảo luận nhất trí cao và tán thành tiếp tục giữ quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời, bổ sung một số nội dung về bản chất, vai trò, trách nhiệm của Đảng cho phù hợp với tinh thần Cương lĩnh. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cần thể hiện sâu sắc, toàn diện hơn về bản chất của Đảng trong Hiến pháp để thấy được vai trò và sứ mệnh lịch sử to lớn của Đảng qua các giai đoạn cách mạng, nên nhân dân tin tưởng giao phó vai trò lãnh đạo cho Đảng. Đồng thời, Hiến pháp cần quy định trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi người. Quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải do Hiến pháp và Luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
Khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tiếp tục kế thừa chế định về sở hữu đất đai đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, cần làm rõ một số vấn đề có tính nguyên tắc như: Nhà nước là đại diện chủ sở hữu; quy định các quyền của chủ sở hữu về đất đai (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt); phân định rõ quyền của chủ sở hữu và quyền của người sử dụng đất… Thể chế hóa Cương lĩnh về các vấn đề văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường trong Hiến pháp cho phù hợp với tình hình mới.
- Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy Nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992.
Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để có phương án phù hợp quy định trong Hiến pháp về đơn vị hành chính lãnh thổ, cấp hành chính và tổ chức chính quyền địa phương phù hợp; quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương.
Tiếp tục hoàn thiện và phát huy cơ chế hiện hành về bảo vệ Hiến pháp theo hướng rà soát lại nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này, nhất là tăng cường vai trò, trách nhiệm của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu các phương án về mô hình cơ quan bảo vệ Hiến pháp cụ thể, phù hợp với điều kiện của nước ta.
- Sửa đổi Hiến pháp để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
Phân định rõ hơn thẩm quyền của các chủ thể trong việc ký kết, phê chuẩn điều ước quốc tế; xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước ta đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới.
- Sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp
Quy trình sửa đổi Hiến pháp được tiếp tục thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa XI) và quy định tại Điều 147 của Hiến pháp hiện hành, tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học; có cơ chế bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý và tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân để Quốc hội có đầy đủ cơ sở xem xét, quyết định.
II. Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
1. Tình hình tổ chức thực hiện Nghị quyết
Các quan điểm chỉ đạo, định hướng chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa và qua thực tế triển khai thi hành đã chứng minh cơ bản là đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết đã có tác động tích cực, tạo sự chuyển biến trong lĩnh vực đất đai, tăng cường một bước hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, khai thác tiềm năng đất đai phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực quốc gia, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ môi trường; đóng góp nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, yếu kém như: Công tác quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế, bất cập. Quy hoạch sử dụng đất chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ với các quy hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn yếu. Các quy định pháp luật về đất đai vẫn còn một số nội dung chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng đất. Chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai và chưa giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa đủ rõ và còn nhiều vướng mắc. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất chưa nghiêm. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp, kéo dài, diễn biến phức tạp. Nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai chưa đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ, nhất là ở cấp cơ sở...
2. Quan điểm chỉ đạo và định hướng tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
Quan điểm chỉ đạo
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, là nguồn lực to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Trong thời gian tới tiếp tục kế thừa những quan điểm chỉ đạo về chính sách, pháp luật đất đai đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), đồng thời có bổ sung và phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Định hướng tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai
- Tiếp tục khẳng định đất đai thuộc chế độ sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
- Việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng được thực hiện theo Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định số 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ, không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân.
- Tiếp tục quy định thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân và mở rộng hơn so với quy định hiện hành.
- Quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, nhưng cần nâng hạn mức, chú ý đến đặc điểm của từng vùng, phù hợp với từng giai đoạn và giao cho Chính phủ quy định cụ thể.
- Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính về đất đai. Nhà nước chủ động điều tiết giá đất trên thị trường bằng quan hệ cung-cầu; rà soát pháp luật về thuế liên quan đến đất đai và bất động sản, các ưu đãi về thuế để đảm bảo công bằng, nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, khắc phục tình trạng chậm đưa vào sử dụng hoặc bỏ hoang đất đã giao, đã cho thuê; điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không phải do người sử dụng tạo ra.
- Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch để tạo quỹ đất “sạch”, đầu tư công trình kết cấu hạ tầng, công trình phục vụ lợi ích công cộng và tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất.
- Cần nghiêm túc thực hiện theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự. Các cơ quan có thẩm quyền phải đề cao trách nhiệm, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp luật; củng cố hệ thống thanh tra đất đai, tòa án các cấp đáp ứng thực thi nhiệm vụ. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai.
- Những vấn đề quan trọng, chưa đủ rõ, trong quá trình thảo luận còn có ý kiến khác nhau như: thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân; hạn mức nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp; quyền của người sử dụng đất; giá đất; thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; vấn đề tạo nguồn lực từ đất… sẽ được tiếp tục nghiên cứu, để đến Hội nghị Trung ương 6 xem xét, ban hành Nghị quyết mới định hướng cho việc sửa đổi Luật đất đai năm 2003.
III. Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”
1. Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết
Những kết quả đạt được
- Sau 5 năm thực hiện, với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, đã tạo được những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động trong phòng chống tham nhũng, lãng phí (PCTN, LP).
- Công tác PCTN, LP đã đạt được những kết quả bước đầu. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế.
- Những kết quả đạt được có ý nghĩa quan trọng để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cao hơn trong công tác PCTN, LP. Kết quả đó cũng khẳng định những chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước được quy định trong Nghị quyết Trung ương 3, Luật PCTN, Luật Thực hành tiết kiệm (THTK), chống lãng phí (CLP) là cơ bản đúng đắn, phù hợp.
Những hạn chế, bất cập
- Công tác PCTN, LP nói chung và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 nói riêng trong những năm qua vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
- Tham nhũng, lãng phí vẫn xảy ra nghiêm trọng trong nhiều lĩnh vực và các hoạt động, gây bức xúc trong xã hội, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu vẫn là các nguyên nhân chủ quan sau:
Thứ nhất, không ít cấp ủy Đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, LP. Vai trò của nhiều chi bộ, tổ chức cơ sở đảng trong đấu tranh PCTN, LP còn mờ nhạt. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi chưa nghiêm túc. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, kể cả cấp Trung ương chưa nêu gương về đạo đức, lối sống và chưa kiên quyết đấu tranh PCTN, LP.
Thứ hai, cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập, thiếu công khai, minh bạch và nhất quán; tình trạng “xin - cho”, nhất là trong việc phân bổ nguồn lực chưa được khắc phục.
Thứ ba, một số quy định về PCTN, LP chưa phù hợp, thiếu đồng bộ, chưa đủ chặt chẽ nên tác dụng hạn chế.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN chưa đủ mạnh, có mặt chưa hợp lý.
2. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp
Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo
Quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; tiếp tục thực hiện đồng bộ các mục tiêu, quan điểm, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, LP với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật để tạo chuyển biến mới trong công tác PCTN, LP.
Nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp PCTN, LP, trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đấu tranh PCTN, LP. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và người đứng đầu phải thực sự coi công tác PCTN, LP là một nhiệm vụ trọng tâm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
Trong các kỳ họp thường kỳ của các cấp ủy và tổ chức đảng phải có nội dung PCTN, LP. Bí thư cấp ủy và người đứng đầu chính quyền các cấp phải thực sự gương mẫu và dành thời gian thích đáng để lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, LP. Các tỉnh ủy, thành ủy cần lựa chọn, bố trí những cán bộ có năng lực, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức trực tiếp làm công tác này; đồng thời tăng cường kiểm tra và nghe các cơ quan có chức năng PCTN, LP báo cáo để chỉ đạo kịp thời. Nơi nào có điều kiện thì bố trí cấp ủy viên làm Phó Trưởng Ban chỉ đạo PCTN cấp tỉnh.
Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng PCTN của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, kịp thời xử lý và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên vi phạm. Kiểm tra, rà soát, đánh giá vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu trong công tác PCTN, LP.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Trong quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật đất đai và các luật liên quan theo hướng tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản (quy hoạch, thu hồi, bồi thường, giao đất, cho thuê đất, định giá, đấu giá quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên, khoáng sản…). Nghiên cứu xây dựng cơ chế tách quyền giao đất, cấp phép khai thác tài nguyên, khoáng sản với quyền định giá đất, định giá tài nguyên, khoáng sản của chính quyền địa phương nhằm phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
Hoàn thiện các quy định để quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách. Kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công, nhất là mua sắm và đầu tư công; các khoản chi thường xuyên; các định mức, tiêu chuẩn trong sản xuất, tiêu dùng; khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước trong doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn của Nhà nước; thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp; thực hiện nghiêm túc việc kiểm toán và công khai, minh bạch về tài chính. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng. Hoàn thiện các quy định để kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính, ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư… Sớm xây dựng các quy định để thực hiện Quyết định số 2453/QĐ-TTG ngày 27-12-2011 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt nhằm kiểm soát, phòng ngừa tham nhũng.
Trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân và doanh nghiệp. Cần tập trung thực hiện mạnh mẽ việc cải cách thủ tục hành chính để tạo sự đơn giản, công khai, minh bạch trong giao dịch, giao tiếp ở các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng. Thực hiện hiệu quả Quyết định số 263/QĐ-TTG ngày 05-3-2012 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch rà soát thủ tục hành chính trọng tâm năm 2012 trong các lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng.
- Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… Cần có quy định cụ thể để có thể điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ (kể cả việc lấy phiếu tín nhiệm bất thường). Có quy định cụ thể và thực hiện thống nhất trong cả nước chủ trương không bố trí một số chức danh cán bộ ở cấp tỉnh, cấp huyện là người địa phương. Thực hiện nghiêm các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Sửa đổi Luật PCTN và các văn bản liên quan khác để thực hiện việc công khai kết quả kê khai tài sản ở nơi công tác và nơi cư trú theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Từng bước mở rộng diện kê khai và phạm vi công khai kết quả kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên, công chức; quy định về trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 3. Nghiên cứu, quy định việc chủ động kiểm tra, xác minh kết quả kê khai tài sản của cơ quan quản lý cán bộ, công chức đối với những người thuộc quyền quản lý để bảo đảm tính trung thực của việc kê khai. Các bộ, ngành khẩn trương, nghiêm túc xây dựng quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong việc cưới, việc tang, mừng nhà mới, tổ chức sinh nhật, việc nhận bằng cấp, học hàm, học vị, danh hiệu thi đua, khen thưởng.
Từng bước thực hiện chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm cho công chức, viên chức có nguồn thu nhập chủ yếu bằng lương, sống bằng lương và có mức sống khá trong xã hội. Nghiên cứu, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN, bảo đảm tránh sự chồng chéo và bỏ trống, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ PCTN. Tiếp tục kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương và Ban Chỉ đạo PCTN cấp tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI).
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Khẩn trương hoàn thiện các quy định về giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, giám định chất lượng công trình đầu tư xây dựng… phục vụ kịp thời, có hiệu quả việc xử lý tham nhũng. Nghiên cứu thực hiện biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng đối phó của đối tượng có dấu hiệu tham nhũng khi bị thanh tra, kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan chức năng. Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả. Có quy định nhằm hạn chế tối đa việc cho bị can được tại ngoại trong quá trình điều tra về hành vi tham nhũng và việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với đối tượng phạm tội tham nhũng.
Bên cạnh việc tích cực, chủ động phòng ngừa, cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng. Đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm. Đối với các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, cấp ủy cần chủ động yêu cầu Ban Chỉ đạo PCTN và các cơ quan liên quan báo cáo để cho chủ trương xử lý bảo đảm khẩn trương, đúng quy định của pháp luật.
Tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán một số lĩnh vực trọng điểm như: quản lý sử dụng đất đai, khai thác khoáng sản; đầu tư, mua sắm công; thu, chi ngân sách; quản lý tài sản công; hệ thống ngân hàng thương mại và công tác cán bộ.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng. Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động và bảo đảm sự liêm chính trong đội ngũ cán bộ các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử. Xử lý kiên quyết, kịp thời các hành vi tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị PCTN và những người bao che cho tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về THTK, CLP đối với các cơ quan tổ chức sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, gây lãng phí.
Ban Chỉ đạo Trung ương cần phối hợp chặt chẽ với các Ban xây dựng Đảng ở Trung ương để theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc công tác PCTN của các ban cán sự đảng, đảng ủy, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương.
- Tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần tăng cường giám sát thường xuyên đối với hoạt động PCTN, LP, trước hết là giám sát hoạt động của các cơ quan có chức năng PCTN, LP, từ đó, yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền thực hiện các biện pháp PCTN, LP có hiệu quả. Có biện pháp bảo đảm cho hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp hiệu lực cao hơn. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, hiệp hội ngành nghề, của cộng đồng và nhân dân trong việc phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng, lãng phí. Ban hành Quy chế nhân dân giám sát tổ chức đảng và đảng viên. Có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và có chính sách truyền thông đúng đắn về tình hình tham nhũng, lãng phí và công tác PCTN, LP; phát huy vai trò và trách nhiệm của báo chí trong PCTN, LP.
Khẩn trương cụ thể hóa cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với công tác PCTN, LP.
3. Về “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”
Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao và quyết định về phương án kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương và địa phương:
Ở Trung ương: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, gồm một số đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Bộ Chính trị sẽ cân nhắc, lựa chọn các thành viên khác của Ban Chỉ đạo cho phù hợp, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo (Ban Nội chính Trung ương) về phòng, chống tham nhũng.
Ở địa phương: Không tổ chức Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố về phòng, chống tham nhũng. Tỉnh uỷ, thành uỷ trực tiếp lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và có trách nhiệm phối hợp với Ban Chỉ đạo Trung ương khi có các vụ việc tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở địa phương. Thành lập lại Ban Nội chính ở các tỉnh uỷ, thành ủy để tham mưu cho cấp uỷ về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bộ Chính trị sẽ xem xét, quyết định cụ thể theo định hướng của Trung ương.
IV. Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020
Trong nhiều thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tuy nhiên cho tới nay, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, kết quả đạt được có mặt còn thấp, chưa bền vững. Nguồn lực cho thực hiện các chính sách xã hội còn hạn hẹp, dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời đã đề ra định hướng phát triển toàn diện các lĩnh vực xã hội. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, phát huy các thành tựu đã đạt được và sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị; hoàn thiện hệ thống thể chế, huy động và cân đối thích hợp các nguồn lực; thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách xã hội để không ngừng nâng cao phúc lợi và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phấn đấu đạt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển xã hội của Nghị quyết Đại hội XI đã đề ra. Các chính sách xã hội sẽ được cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thông qua các nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và các chương trình mục tiêu quốc gia.
Về định hướng chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020:
1. Về quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có công và bảo đảm an sinh xã hội là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và là trách nhiệm của toàn xã hội.
Thứ hai, các chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối, huy động nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên đối với người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện; phải bảo đảm công bằng và bền vững có tính chia sẻ giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Thứ tư, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.
Thứ năm, tăng cường hội nhập quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
2. Về mục tiêu tổng quát
Tiếp tục cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công và gia đình, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản hoàn thành mục tiêu đảm bảo các gia đình người có công có mức sống tối thiểu bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn. Đến năm 2020 cơ bản bảo đảm an sinh xã hội bao phủ toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin.
3. Về nhiệm vụ và giải pháp
- Về chính sách ưu đãi người có công
Làm tốt công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công. Tập trung triển khai tốt Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, mở rộng diện thụ hưởng và giải quyết cơ bản những trường hợp còn tồn đọng. Nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công phù hợp với lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu. Đến hết năm 2013, giải quyết cơ bản về nhà ở cho 72 nghìn hộ người có công đang sống trong các nhà xuống cấp cần sửa chữa. Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp hơn đối với người có công, gia đình và thân nhân về phát triển sản xuất, việc làm, bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, đào tạo; quan tâm tu bổ nghĩa trang, tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sỹ. Tăng cường các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nâng cao vai trò và trách nhiệm của xã hội.
- Về bảo đảm an sinh xã hội
Về việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất, tạo việc làm, chính sách hỗ trợ học nghề, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn. Hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững
Về bảo hiểm xã hội: Sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội, trong đó mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đến các doanh nghiệp có quy mô dưới 10 lao động. Hoàn thiện chính sách, tổ chức quản lý và chi trả bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Về trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước.
Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội, mở rộng đối tượng thụ hưởng nâng chuẩn trợ cấp, nghiên cứu xây dựng một gói trợ cấp chung cho các hộ gia đình, người dân thuộc diện thụ hưởng. Tiếp tục phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai, bão lụt, bị chết người, mất tài sản được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng.
Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn.
4. Giải pháp chung
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong việc thực hiện các chương trình, chính sách đối với người có công và bảo đảm an sinh xã hội. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong chỉ đạo và thực hiện.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, đoàn thể và người dân, tiếp tục phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, đẩy mạnh các phong trào đền ơn đáp nghĩa, tương thân tương ái, chăm sóc, giúp đỡ người có công, người nghèo.
- Đổi mới quản lý nhà nước về chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trên cơ sở rà soát toàn diện các chính sách hiện hành, điều chỉnh những chính sách bất cập và bổ sung chính sách mới, hướng tới xây dựng hệ thống chính sách vừa hỗ trợ hiệu quả, vừa khuyến khích nỗ lực vươn lên của các đối tượng thụ hưởng, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước. Thống nhất đầu mối quản lý các chương trình, chính sách theo hướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương chỉ quản lý mục tiêu, hướng dẫn thực hiện, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện; địa phương chịu trách nhiệm quản lý nguồn lực, tổ chức thực hiện. Nâng cao năng lực thực thi chính sách của cấp cơ sở. Hiện đại hóa công tác quản lý, phương thức chi trả; xây dựng cơ sở dữ liệu hộ gia đình, mã số cá nhân và bộ chỉ số an sinh xã hội để quản lý, theo dõi, đánh giá việc thực hiện chính sách an sinh xã hội trong từng thời kỳ, xây dựng báo cáo quốc gia về an sinh xã hội.
- Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ nhiều nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
V. Về “Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020”
1. Về đánh giá tình hình và định hướng đến năm 2020
Về đánh giá tình hình
Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công từ năm 2003 tới nay đã từng bước được hoàn thiện, góp phần cải thiện đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu và người có công.
Tuy nhiên, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Tiền lương thấp kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng lương, người nghỉ hưu, người có công và chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ. Tiền lương của một số doanh nghiệp nhà nước cao, chênh lệch bất hợp lý giữa lương của viên chức quản lý với người lao động trong doanh nghiệp và cán bộ, công chức. Giải pháp tạo nguồn cho cải cách tiền lương và trợ cấp xã hội, nhất là khu vực sự nghiệp công chưa đạt yêu cầu.
Về định hướng cải cách chính sách tiền lương đến năm 2020
Cải cách chính sách tiền lương phải có quyết tâm chính trị trong việc ban hành và thực hiện chính sách, nhất là đối với khu vực sự nghiệp công; phải cơ cấu lại ngân sách nhà nước; phải kiểm soát chặt chẽ và phấn đấu giảm đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước; trả lương theo vị trí việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ; quản lý chặt chẽ biên chế gắn với cải cách hành chính, sắp xếp tổ chức bộ máy.
- Về mức lương tối thiểu: Điều chỉnh mức lương tối thiểu theo lộ trình gắn với đổi mới hoạt động sự nghiệp, phù hợp với khả năng nền kinh tế để tiến tới bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người hưởng lương. Đối với khu vực doanh nghiệp, thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu nhanh hơn để đến năm 2015 đạt mức nhu cầu tối thiểu. Bộ luật Lao động quy định mức lương tối thiểu để trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất (không qua đào tạo) trong điều kiện lao động bình thường và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác (lao động qua đào tạo).
- Về quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa: Nghiên cứu mở rộng quan hệ lương tối thiểu - trung bình - tối đa cho phù hợp với quan hệ thị trường; trên cơ sở đó, thiết kế lại hệ thống thang, bậc lương và tiếp tục hoàn thiện các chế độ phụ cấp cho phù hợp.
- Về thang, bậc lương: Áp dụng một bảng lương chung, yếu tố đặc thù ngành nghề được thực hiện bằng chế độ phụ cấp; đồng thời nghiên cứu để mở rộng khoảng cách giữa các bậc lương cho phù hợp.
- Về các chế độ phụ cấp: Rà soát các chế độ trợ cấp, phụ cấp giữa các ngành, nghề để bảo đảm công bằng, hợp lý; nghiên cứu, rà soát sắp xếp gộp các chế độ phụ cấp (ưu đãi, trách nhiệm theo nghề, công vụ) thành một loại phụ cấp với các mức khác nhau cho phù hợp.
- Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập: Tiếp tục thực hiện khoán biên chế, kinh phí quản lý hành chính. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương đối với khu vực sự nghiệp công theo Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khóa X; thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị; có lộ trình thích hợp, từng bước tính đúng, tính đủ chi phí trong giá dịch vụ phù hợp với khả năng của nhân dân.
- Về tiền lương đối với viên chức quản lý doanh nghiệp: Quy định khung tiền lương cơ bản có khống chế mức lương tối đa của viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước gắn với kết quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn.
- Về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, công chức cơ sở: Thực hiện khoán số lượng chức danh, quỹ lương và quỹ phụ cấp đối với cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở, khuyến khích kiêm nhiệm. Xem xét điều chỉnh chế độ cho phù hợp đối với những người hoạt động không chuyên trách. Đồng thời tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX); trên cơ sở đó nghiên cứu, xây dựng chính sách tổng thể đối với cán bộ, công chức ở cơ sở.
2. Về các giải pháp tạo nguồn
- Thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước để tạo nguồn thực hiện chính sách tiền lương theo hướng ngân sách nhà nước cơ bản đảm bảo nhu cầu kinh phí cho khu vực hành chính, lực lượng vũ trang, phù hợp với khả năng của nền kinh tế; đồng thời thực hiện tiết kiệm tối đa để góp phần tạo nguồn thực hiện chính sách tiền lương.
- Đối với khu vực sự nghiệp công lập, đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính, thực hiện đẩy mạnh xã hội hoá theo lộ trình, bảo đảm phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) và Thông báo số 37-TB/TW ngày 26-5-2011 về thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”.
3. Đối với một số nội dung thực hiện trong năm 2012 và năm 2013
- Thực hiện chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2012 và năm 2013 cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó tập trung xử lý một bước các bất hợp lý trong chính sách tiền lương hiện hành như: chưa bổ sung thêm các loại phụ cấp theo ngành, nghề; sửa đổi phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở cơ sở; sửa đổi chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công; cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Đề án về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đến năm 2020 để trình Hội nghị Trung ương 7, khóa XI./.
TG
Theo Tuyengiao.vn