Một thời bão lửa, giờ về “gối trăng”

(Baonghean) - Tôi biết Nguyễn Đăng Chế cách đây chừng 10 năm. Ông thường lại nhà ông bạn thơ già - nơi tôi thuê trọ - cùng với một vài người khác nữa để đàm đạo chuyện văn chương và họ đọc cho nhau nghe những bài thơ mới viết. Ông ấn tượng với tôi bởi dáng người cao lớn, bước đi đĩnh đạc và giọng nói sang sảng, hào hùng. Đã có lần tôi đùa: Bác Chế trông không giống nhà thơ lắm nhỉ? Một người trong nhóm thơ hôm ấy đã nói nhỏ với tôi: Trước khi trở thành “nhà thơ” Nguyễn Đăng Chế, ông ấy đã là “anh hùng”. Nếu nhà báo có ý định viết, thì đây là một con người vô cùng thú vị…

Và bây giờ, sau 10 năm, tôi mới thực hiện được dự định ấp ủ của mình. Không chỉ có ông Chế, mà vợ ông - bà Nguyễn Thị Huệ cũng ân cần ngồi tiếp chuyện và… đọc thơ của chồng cho tôi nghe. Trong căn nhà ấm cúng, hai vợ chồng- hai người bạn tâm giao cùng sống lại bao nhiêu hồi ức. “Ngày xưa, o Huệ ni - là Tiểu đội trưởng một tiểu đội rà phá bom từ trường trên sông Lam. O ni dân Cửa Hội, giỏi bơi lội lắm, bỏ xa cánh đàn ông. Hồi đó, tui là thủ trưởng của mấy đơn vị rà phá bom từ trường trên sông Lam, cảm mến o ni cũng vì cái đức gan dạ”.

Câu chuyện về người Trưởng phà Bến Thủy những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt tôi đã nghe kể nhiều lần. Không chỉ qua những người bạn của ông, những người gắn bó với dòng sông Lam và con phà Bến Thủy xưa, những người đã sống trong lòng Vinh những năm lửa đạn, mà còn qua những trang sách của nhà văn Đào Thắng. Thế nhưng, bằng tất cả sự khiêm tốn, giản dị, ông đã ngồi trước tôi với một nụ cười: “Thời ngang dọc của tui qua rồi. Giờ trở về cùng rơm rạ và toàn tâm, toàn ý với thơ thôi!” 

Nguyễn Đăng Chế và tập thơ “Dòng sông vô hình”.

“Một thời ngang dọc”

Trong một bài thơ với giọng điệu ngang tàng, ngất ngưởng, Nguyễn Đăng Chế nhìn lại mình đã có “một thời ngang dọc, bất cần”. Là ông nói vui, chứ quá khứ và những năm tháng “ngang dọc” ấy luôn cháy trong ông như những ngày đẹp nhất.

Sinh năm 1942 tại một ngôi làng bình dị như bao nhiêu làng quê khác thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, Nguyễn Đăng Chế có niềm tự hào riêng với dòng dõi “mấy đời làm cách mạng, mấy đời yêu thơ phú”. Ông nội Nguyễn Đăng Chế là cụ Nguyễn Thế Mỹ, còn gọi là cụ đồ Mỹ, là một nhà nho yêu nước - một chí sỹ của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, đã từng bị tù đày tại nhiều nhà lao thời đế quốc, phong kiến. Cụ đồ Mỹ đã có nhiều bài thơ bày tỏ lòng yêu nước và khí khái của một nhà nho như: Vịnh cây hồng, Cày trại; có nhiều câu đối, bài điếu chuẩn mực: Lên sáu mươi tự vịnh, Điếu các chiến sỹ hy sinh ở Thái Lão...

Cha của Nguyễn Đăng Chế là nghệ sỹ Nguyễn Đăng Khầm (hay còn gọi là Nguyễn Thanh Khầm), trước là chuyên viên của Ty Văn hóa Nghệ Tĩnh, nổi tiếng với giọng ngâm thơ hay và là thầy dạy về cải lương, tuồng, dân ca... cho nhiều nghệ sỹ bấy giờ. Nguyễn Đăng Chế là con thứ 2 trong gia đình có 7 người con (anh trai đầu đã hy sinh tại chiến trường Campuchia). Những năm 1961-1964, ông theo học ngành Giao thông và trở về Nghệ An nhận nhiệm vụ tại Ty Giao thông vào tháng 7/1964.

Chỉ sau đó chưa đầy 1 tháng, quê hương bước vào cuộc chiến chống Mỹ ác liệt. Những con đường đạn bom cày xới, những con đường xuyên rừng, núi lên vùng cao đã có dấu chân của người cán bộ khảo sát giao thông Nguyễn Đăng Chế. Năng động, sáng tạo và dũng cảm, người cán bộ trẻ luôn được tin mến, trở thành đội trưởng đội khảo sát, thiết kế đường thủy, rồi đội trưởng đội rà phá bom trên sông Lam.

Đến năm 1968, trước diễn biến của chiến tranh, Phà Bến Thủy được nhận định là trọng điểm, phải chuẩn bị nhiều phương án tác chiến, có thể phải tiêu hủy người, xe nhưng phải đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt. Lúc này, cấp trên đã chọn Nguyễn Đăng Chế - một đảng viên trẻ 27 tuổi làm người đứng đầu sóng ngọn gió: Trưởng phà Bến Thủy. Nhận nhiệm vụ, Nguyễn Đăng Chế không khỏi suy nghĩ: “Mình về nhận nhiệm vụ to lớn này đúng lúc phà vừa nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND, một tập thể kiên cường, giàu thành tích là thế, anh em ở đây toàn những người dạn dày kinh nghiệm của 3 đại đội: Pháo binh Hoàng Mai, Pháo binh Nam Đàn và Công binh Bến Thủy, chắc là sẽ rất khó khăn để anh em thừa nhận.

Lo thì rất lo, nhưng là đảng viên không lẽ mình lùi bước? Nếu không phải là lớp trẻ đứng ra nhận trách nhiệm bám trụ dòng sông, hứng chịu đạn bom.. thì là ai đây?” Vậy là Nguyễn Đăng Chế trở thành Trưởng phà Bến Thủy từ đầu năm 1969. Trong hồi ức của nhà văn Đào Thắng, thì Nguyễn Đăng Chế khi đó “lúc nào cũng đeo băng đỏ có dòng chữ Trưởng phà Bến Thủy nơi cánh tay, cao to, vững chãi như nhà chỉ huy quân sự”. Và ông đã trở thành một người lính thực thụ, gắn bó với hơn 300 con người nguyện sống chết với dòng sông để đảm bảo mạch máu giao thông, gắn bó với tổng đài - ngôi nhà chung vĩ đại đặt trong lòng rú Quyết - địa đạo nổi của Vinh- Bến Thủy.

Cứ 9 người 1 chuyến phà, chịu trách nhiệm trước tài sản của quân đội, của nhân dân. Phà chạy liên tục ngày đêm, chở gạo, đạn, thực phẩm, lán bạt, tư trang... cho chiến trường. Công nhân thay phiên nhau xuống phà, sẵn sàng thay thế người bị thương, người hy sinh. Mỗi đêm, tính ra có hàng ngàn chuyến xe qua Bến Thủy. Vị Trưởng phà hồi đó, cũng nằm hầm, ăn mỳ trộn nước mắm nướng trên bếp, sáng nào cũng ướt như chuột lột, và lo nhất phà tắc, ùn xe, pháo Mỹ từ biển câu vào...

Tháng 11/1972, phà bị tắc hàng tuần do máy bay Mỹ ném bom nổ chậm và bom từ trường thế hệ mới. Phương án dùng thuyền khử từ rà phá không hiệu quả. Huy động tàu phóng từ hải quân cũng chưa rà phá hết được số lượng bom dưới lòng sông sâu, Trưởng phà Nguyễn Đăng Chế nêu sáng kiến dùng phà lớn, tốc độ nhanh, lướt trên bom với kích từ mạnh để buộc nó phải nổ. Câu hỏi được đặt ra “Ai sẽ là người chỉ huy con phà cảm từ này?”. Nguyễn Đăng Chế đã dõng dạc trả lời: Tôi là phà trưởng, tôi trực tiếp chỉ huy con phà này!

Tinh mơ hôm ấy, con phà chở người chỉ huy dũng cảm rà trên sông đến vòng thứ 3 thì 2 quả bom từ phát nổ kích thích những quả bom khác cùng phát nổ. Những cột nước dữ dội bùng lên từ lòng sông đã giật tung xích của 2 chiếc ca nô, hất tung  phà lên trời. Con phà chìm dần, Nguyễn Đăng Chế bi sức ép nặng nổi bồng bềnh trên mặt sông. Tin báo về tỉnh, về gia đình, Trưởng phà Bến Thủy đã hy sinh. Nhưng với nỗ lực của bác sỹ và tinh thần thép của chính mình, Nguyễn Đăng Chế đã trở về với đồng đội, với những chuyến phà qua sông.


Với những thành tích nổi bật trong nhiều năm, Nguyễn Đăng Chế được tỉnh Nghệ An đề nghị làm hồ sơ phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND, nhưng ông đã một mực chối từ. Ông nghĩ: Có biết bao nhiêu người đã anh dũng và nằm lại, có bao nhiêu người can đảm và lặng lẽ khác. Họ xứng đáng hơn mình. Mình có vinh dự được tặng danh hiệu chiến sỹ thi đua nhiều năm, được nhận Huân chương Kháng chiến hạng Ba của Chủ tịch nước trao tặng, ấy đã là xứng đáng rồi. Năm 1973, Phà Bến Thủy được tuyên dương Anh hùng lần thứ 2, trong đó có không ít đóng góp của vị Trưởng phà can trường Nguyễn Đăng Chế...

Với thơ, “tôi là kẻ không ngờ”

Bước ra từ cuộc chiến, sau bao nhiêu năm làm cán bộ của ngành Giao thông cho tới ngày nghỉ hưu, Nguyễn Đăng Chế ngỡ ngàng nhìn lại “Thế mà lão ngỡ còn lâu/ Nắng mưa, sương gió nhuộm màu tóc râu/ Vượt sông, xẻ núi, bắc cầu/ Qua đường máu, có ngờ đâu vẫn còn”. Ông tìm đến với thơ, và “Lại về với trăng”, với “rơm rạ một thời” (tên những bài thơ của Nguyễn Đăng Chế). Trong một cuộc “Trò chuyện với thơ”, ông đã tự bạch: “Thơ ơi thơ, tôi là kẻ không ngờ”. Lời nói ấy, thực ra là một lời đầy khiêm tốn trước Nàng Thơ. Và có lẽ, chỉ đứng trước thơ - trước cái đẹp cao quý của cuộc đời, con người to lớn, hiên ngang ấy mới bất chợt cúi đầu. Ông thấy mình thật may mắn khi biết viết thành vần điệu những suy nghĩ, những tình cảm trào dâng. Nhưng, Nguyễn Đăng Chế làm thơ, đâu phải điều bất ngờ, khi ông thừa hưởng gen của ông nội, của cha mình và ông cũng đã viết và say thơ từ rất sớm. Từ nhỏ, ông đã rất giỏi về văn học, rất mê văn chương. Năm 1961, khi 19 tuổi, ông đã đặt bút viết bài thơ đầu tiên mà cho đến giờ ông vẫn t

huộc làu từng dấu chấm, phẩy (Nguyễn Đăng Chế có tài nhớ thơ. Ông thuộc tất cả hơn 100 bài thơ của chính mình, ngoài ra thuộc rất nhiều thơ của các tác giả khác). Ấy là bài thơ “Chào mừng người anh hùng vũ trụ” viết về Anh hùng của đất nước Liên Xô Gagarin. Rồi sau đó, trong sổ tay, trên vỏ bao thuốc lá, những mảnh giấy xé vội... Những bài thơ lần lượt ra đời, là Đêm sông Cầu, Hương nếp rồng, Gặp nhau trên đỉnh Truông Kè, Dấu hỏi trong tôi... Cứ ngỡ như ông bộc bạch, là đã thanh thản “mải vui thủng thẳng”, đã về “gối trăng” rồi, trong những bài thơ ông viết sau ngày nghỉ hưu, nhưng không, trong những dòng thơ ấy vẫn là ăm ắp thế sự, ăm ắp nỗi niềm. Hai tập thơ “Với người năm xưa” và “Dòng sông vô hình” được in ra, người ta vẫn thấy một chân dung Nguyễn Đăng Chế hào sảng mà bộc trực, tưởng nhẹ bẫng như không mà lắm nỗi nghẹn ngào.

Ông dành khá nhiều tâm sự cho làng quê Nhạn Tháp, cho người dân một nắng hai sương và người mẹ vất vả, tảo tần. Đứng trước “Làng”, ông “thưa”: “Thưa làng, quỷ sứ về đây/ Cái tên làng đặt từ ngày ấu thơ”. Ông đang soi ngắm chính mình, đang gọi chính mình và trân trọng một quá khứ đã xa “Sáu mươi -sàng lọc dại khôn/ Tìm về cái thuở lon ton để nhìn”. Thế đấy, nhưng vẫn khôn xiết những trở trăn, những vò xé, còn đâu, tìm đâu cái “hương nếp rồng” (nếp chẳng còn, nồi hông còn đó) thuở nhỏ, còn đâu “bò gặm nắng sông”, đâu “củi lửa nướng ngô bông, sắn lùi”, và mẹ thì bao năm vẫn “sững sờ trước cổng bên thềm/ Mẹ ngồi náu lặng chờ đêm ập về” suốt “ba lăm năm vẫn chòng chành bóng con”.

Ký ức, một phần ký ức về làng quê đã luôn đau đáu trong trái tim ông, để ngẩn ngơ “Tuổi thơ gần đấy mà xa/ Chợ quê gần đấy mà ta khó về”. Ngồi trên nệm êm ô tô, ông lại miên man nghĩ về cái thời “trèo ổ rơm trong chuồng bò”, uống cốc bia lại nghĩ về cái thời “vục miệng uống nước ruộng buổi cày trưa”. Thế đấy, ông đến với thơ đâu phải để thanh thản mà  là để nghĩ suy...

Không ít bài thơ của ông, dấu ấn những tháng ngày bão đạn vẫn chưa phai. Ta có thể thấy dấu chân của người trưởng phà năm xưa, nay đi trên những con đường mới thênh thang, đi trên cây cầu bắc qua sông xưa mà như trĩu nặng “Đường vui nhớ bến tưởng nguồn/ Con phà bom dội gọi hồn ta chăng”. Ông vẫn thấy trong hoàng hôn, trong những ban mai “Những người kéo phà đi sơ tán/ Để lại dấu chân/ Hoàng hôn ra đi, trở về mờ sáng/ Dấu chân/ Dấu chân/ Dấu chân/ Bùn đen máu lẫn/ Khắc vào đất niềm tin và lòng bất khuất...”. Những kỷ niệm gọi về nhức nhối, biết “Còn ai quên nhớ mảnh trăng máu bầm?” cái hôm “Hạ huyệt bom đào bật áo quan”? Một lần đi xe qua Nghĩa trang Quỳnh Xuân (Quỳnh Lưu) đêm trăng sáng, thấy người ta đang quét vôi lại nghĩa trang, ông đã dừng xe vào đó ngắm “mỗi tấm bia liệt sỹ mỗi tên người”. Ông xúc cảm để nghĩ đến hình hài, tâm trạng của những người lính đã nằm xuống với “làng mới” của mình.

Người ta còn gặp trong thơ ông nhưng bài thơ tếu, thơ vui, thơ tặng vợ. Đọc trong câu chữ có phần ngất ngưởng, hóm hỉnh ấy, là cả tấm lòng hồn hậu, yêu thương thiết tha cuộc đời, tinh thần chia sẻ, sự lạc quan và cũng không ít những chiêm nghiệm sâu sắc: “Hoa thật héo mau - hoa giả tươi lâu”, “Thật nhất là lúc ngu ngơ”, “Đêm nay tung thứng lên trời/ Thả câu thơ với nụ cười mà say”. Ông có “Cách tính” rất độc đáo: “Độc lập tính bằng nước mắt/ Cơm áo tính bằng mồ hôi/ Thời gian kiểm nghiệm tình người”. Khi ông đọc bài thơ này trong một hội nghị thay cho lời phát biểu, người ta đã trầm trồ thán phục “cách tính” này, và thán phục cả con người và tính cách của ông.

Còn nhiều điều lắm, tôi chưa viết hết về “người anh hùng - thi sỹ” ấy. Nhưng nói như ông, thì “đừng nhắc về chú nữa, bây giờ chú đã về “gối trăng” rồi”. Trước khi tôi về, bà Huệ đã đọc cho tôi nghe về bài thơ ông làm tặng vợ trong một đêm không ngủ: “Em nằm hay trở mình/Đêm thêm dài, thêm buốt/ Cột sống anh nhói đau/ Cả hai không ngủ được” để nghiệm rằng “Chiến tranh qua lâu rồi/ Nắng mưa thường len lỏi/ Tìm ta lúc trở trời”. Thế đấy, hai vợ chồng ông, hai người thương binh, họ đã sống qua trận mạc để giờ tìm niềm vui từ những điều giản dị...

Bài, ảnh: Thùy Vinh

tin mới

Bâng khuâng... làng nồi Trù Sơn

Bâng khuâng... làng nồi Trù Sơn

(Baonghean.vn) - Hội tụ đầy đủ tiềm năng, lợi thế để phát triển mô hình du lịch trải nghiệm, nhưng để nghề làm nồi đất Trù Sơn (Đô Lương) vươn xa thì còn cần rất nhiều yếu tố…

Lưu giữ điệu ru của người Thái cổ

Lưu giữ điệu ru của người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Để lưu giữ những làn điệu ru con của dân tộc Thái, các thành viên CLB Bảo tồn bản sắc văn hóa Thái tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu) đã thay nhau tìm hiểu, ghi chép lại các điệu hát ru, đồng thời tổ chức các lớp học để truyền dạy cho con cháu.

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

(Baonghean.vn) - Thấu hiểu nỗi đau của những người vợ mất chồng, của con mất cha nơi biển lớn, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tại vùng biển Quỳnh Lưu đã tích cực đồng hành với những người phụ nữ yếu thế, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

(Baonghean.vn) - Hiếm có một vùng quê nào lại có nhiều người đỗ đạt thành danh và có nhiều di tích được xếp hạng như xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Nắm bắt lợi thế đó, gần đây địa phương này đã tiên phong phát triển du lịch, với những tour du lịch mang nhiều ý nghĩa.

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Lễ hội Hang Bua ở huyện Quỳ Châu là một sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Thái phía Tây Bắc Nghệ An. Sinh hoạt văn hóa này cũng là không gian lưu giữ những nét truyền thống của cư dân bản địa vừa góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

(Baonghean.vn) - Lễ hội Đền Cờn năm 2024 có nhiều hoạt động, trò chơi dân gian, nhưng đặc sắc nhất là tục chạy ói với màn rước kiệu, tung kiệu bay trên biển. Tục chạy ói thường được tổ chức vào sáng ngày 21 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, là nghi lễ quan trọng với ngư dân vùng biển.

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

(Baonghean.vn) - Nằm ở ngã ba sông, nơi hợp lưu của dòng Nậm Nơn và Nậm Mộ để hình thành nên dòng sông Cả kỳ vĩ bồi đắp cho vùng hạ du, đền Vạn - Cửa Rào được xem là ngôi đền linh thiêng nhất miền Tây xứ Nghệ. Sáng 1/3 (20 tháng Giêng), người dân muôn phương đã nô nức dự Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào.

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Hang Bua là thắng cảnh tự nhiên nằm trong dãy núi đá vôi “Phà Én” thuộc xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, cách thành phố Vinh 170km về phía Tây Bắc. Lễ hội Hang Bua là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào các dân tộc của huyện nói riêng và vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung.

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…