Nhà giáo Lê Đình Sơn: Trái tim làm một ngọn đèn

(Baonghean) - Trong màn mưa giăng buốt lạnh, tôi rời căn nhà ấm cúng của nhà giáo Lê Đình Sơn. Chỉ một lát nữa thôi, bóng tối sẽ bao trùm khắp thành phố. Tôi biết, bà Thuận sẽ soạn bữa tối, đưa lên tay ông bát cơm còn nghi ngút khói, với ánh nhìn âu yếm. Ông không nhìn thấy đôi mắt, gương mặt bà, nhưng nó luôn hiện hữu trong ông với một vẻ như vậy từ bao nhiêu năm nay. Rất có thể, khi ấy, một tứ thơ chợt đến trong ông. Và bà, lặng lẽ buông bát xuống mâm để chạy vào phòng tìm bút, tìm sổ chờ ông đọc…

Có người gọi ông là “nhà thơ”, người khác lại nói, gọi ông là “nhà lý luận phê bình” mới phải. Đúng, ông là hội viên Hội VHNT Nghệ An, thuộc ban Lý luận phê bình, nhưng lại ghi dấu với thơ từ khá sớm. Không chỉ là giải thơ do Hội Văn nghệ Việt Nam phát động về đề tài thương binh liệt sỹ (ông đoạt giải Nhì, không có giải Nhất) từ những năm 1973, mà ông còn được người ta nhắc đến với khả năng làm những bài xướng thơ Đường chuẩn niêm luật, giàu ý tứ. Ông còn “đương chức” Phó Chủ tịch CLB thơ Hồng Lam (T.P Vinh). Nhưng ông nói: Gọi “nhà giáo” là “chuẩn” nhất. 37 năm đứng lớp, làm thầy ở khoa Văn Đại học Vinh, ấn tượng về “thầy Sơn” trong lòng đồng nghiệp và học trò là không hề nhỏ… Chả thế mà, có “cậu trò” kém thầy chừng 10 tuổi, đứng với thầy thì cũng thành 2 ông già, vẫn tình nguyện làm “xe ôm” và “người dẫn đường” cho thầy đến bất cứ đâu thầy cần.
Nhà giáo Lê Đình Sơn
Nhà giáo Lê Đình Sơn

Ấn tượng của tôi về Lê Đình Sơn cũng vậy, một ông giáo chỉn chu, lịch thiệp. Dù là ông đứng trước hàng ngàn người với vai trò người dẫn chương trình thơ của thành phố trong Ngày thơ Nguyên tiêu tại đền Hồng Sơn, dẫn chương trình thơ của Đài Truyền hình, đi bên vợ đến Thư viện tỉnh tìm sách tra cứu, hay bây giờ, trước mặt tôi thì cái vẻ “nhà giáo” của ông không hề mất đi. Ông nói, cuộc đời đã cho ông làm một ông giáo dạy Văn, ấy là đã cho rất nhiều rồi. Từ đây, nó giúp ông đến gần hơn với con đường sáng tác và nhờ con đường ấy mà ông có được thêm niềm vui sống.

Lê Đình Sơn kể rằng, ngay từ thuở nhỏ, tâm hồn ông bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi những bài ca Huế mà mẹ ông - một người gốc Huế - vẫn thường hát cho các con nghe. Những câu mái nhì, mái đẩy thấm đẫm nỗi buồn sông nước kinh kỳ “Chiều chiều trước bến Văn Lâu/ Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm/ Ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông/ Thuyền ai thấp thoáng bên sông/ Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”. Hay: “Chiều chiều bắt két nhổ lông/ Két kêu ơi chị, chị dừng bất nhơn”…
Buồn, đau, xa xót là thế, cộng với giọng Huế trầm mặc, diết da của mẹ, vậy mà cậu bé Sơn vẫn thích nghe, xin mẹ hát đi hát lại. Chất nhân văn của những câu ca cùng với sự đa cảm trong lòng cậu bé đã “gặp nhau” để sau này Lê Đình Sơn yêu văn chương, trở thành sinh viên khoa Văn của Đại học Vinh khóa 4 (1962-1965). Ngay từ thời sinh viên, Lê Đình Sơn đã tham gia sáng tác và có nhiều thơ đăng báo. Sau khi tốt nghiệp, Lê Đình Sơn ở lại trường làm cán bộ giảng dạy. Bài thơ đoạt giải Nhì trong cuộc vận động sáng tác về đề tài thương binh, liệt sỹ do Hội Văn nghệ Việt Nam phát động năm 1973 mang tên “Kim đồng hồ đứng nguyên hình thước thợ” của ông khiến nhiều người lầm tưởng ông là bộ đội.
Trong bài thơ ấy, ông hóa thân thành một anh lính trong tiểu đội pháo chứng kiến sự hy sinh anh dũng của người khẩu đội trưởng. Tôi hỏi ông, câu chuyện ấy có thật hay là của trí tưởng tượng? Ông thoáng xót xa: Đó chính là câu chuyện của gia đình tôi. Người khẩu đội trưởng hy sinh “nguyên mẫu” trong bài thơ ấy là anh rể của tôi. Anh ấy phụ trách một đơn vị pháo cao xạ ở Đô Lương. Chính tay thầy giáo Lê Đình Sơn ngày đó đã khâm liệm cho anh rể mình tại chiến trường vừa im tiếng súng và chứng kiến “đào anh lên thịt da nóng hổi”, “như nghe tiếng anh hô trên khuôn miệng mở tròn”…
Cuộc đời, có lẽ sẽ bình lặng như vậy đối với thầy Sơn, cũng không mong mỏi gì hơn nữa khi ông được làm nghề mà mình yêu thích, lại được theo đuổi và có những thành công nhất định với văn chương. Thế nhưng, bước ngoặt lại đến đúng lúc ông nghĩ mình được thanh thản nhất, khi chỉ còn một chút ngắn thời gian nữa là nghỉ hưu. Ấy là năm 2000, ông được bác sỹ kết luận bong võng mạc. Sau 5 lần phẫu thuật, vừa chữa bệnh những vẫn vừa đứng lớp, đến năm 2002, thời điểm ông nghỉ hưu thì đôi mắt của ông vĩnh viễn không còn nhìn thấy ánh sáng nữa. Đó thực sự là một cú sốc lớn đối với ông. 
Nhà giáo Lê Đinh Sơn và vợ.
Nhà giáo Lê Đinh Sơn và vợ.
Ông nhớ lại những ngày tháng đó, đã đắm chìm trong u hoài, tuyệt vọng. Tuyệt vọng đến mức, ông giam mình suốt ngày trong 4 bức tường của gian phòng ngủ, không muốn gặp gỡ, tiếp xúc với ai. Bóng đen bao phủ mắt ông và cũng bao phủ luôn tâm trí ông. Ông trở thành “kẻ buông xuôi, đầu hàng vô điều kiện” và ngỡ rằng sẽ chết trong “thế giới đen tối này mãi mãi”…
2 năm, kiên trì những yêu thương, nâng đỡ từ gia đình, vợ con, đặc biệt có sự xuất hiện của “những người bạn đồng cảnh” ở Hội Người mù Thành phố Vinh, Lê Đình Sơn đã dần lấy lại được sự tĩnh tâm. Được mời tham gia vào hội, được tin tưởng giao trọng trách biên tập thơ cho hội, ông thấy mình vẫn còn có ích. Rồi ông nhận ra, nhiều cuộc đời còn bất hạnh hơn mình, ở ngay cạnh mình, vậy mà vẫn tràn trề niềm vui sống. Tại sao không thể đứng dậy, bước đi bằng nghị lực và tri thức sẵn có ? Hành trình bước ra từ bóng tối của ông đã bắt đầu…
Ông nói rằng, thật là thiếu sót nếu không kể về người bạn đồng hành của mình trong hành trình ấy. “Hơn một nửa những gì tôi có, chính là của cô ấy”- ông nói, và chỉ về phía trong nhà, nơi bà Nguyễn Thị Thuận vợ ông đang lụi cụi nép dọn, và chỉ cần tiếng ông gọi khẽ là bà đã hiểu ý, có mặt để ông nhờ vả khi thì rót một chén nước, lúc cắt đĩa cam hay đưa giúp ông quyển sách…
Không chỉ giúp ông trong sinh hoạt hàng ngày, bà còn là người thư ký trung thành, tận tụy của ông. “Khổ thế, cái bệnh của anh làm thơ, tứ thơ nó đến bất chợt lắm. Có khi nửa đêm tỉnh dậy, chợt giật mình nghĩ được câu tâm đắc, thế là lại lay cô ấy dậy”. Cuốn sổ, cây bút lúc nào cũng có sẵn trên đầu giường bà. Ông nói, cũng may bà ấy lại có nghiệp vụ thư viện (bà Thuận nguyên là nhân viên thư viện Trường Đại học Vinh), nên khi tôi viết sách phê bình, lý luận lại nhờ bà tra cứu, tìm tòi hộ. Vì vậy, mà hơn 10 năm “chìm trong bóng tối” mà ông vẫn cho ra mắt 2 tập thơ, 2 tập lý luận phê bình, trong đó có 1 tập thơ, 1 tập phê bình được nhận Giải thưởng Hồ Xuân Hương của tỉnh.
Ông kể, ông và bà biết nhau từ thời ở quê Nam Đàn, khi ấy ông học cấp 3, bà học cấp 2. Theo với thời gian, tình yêu lớn lên trong họ. Cả hai đều là mối tình đầu của nhau. Năm 1968, khi cùng công tác tại Trường Đại học Vinh thì họ làm đám cưới. “Đám cưới của tôi cũng đặc biệt lắm, hồi đó trường đang sơ tán ở Thanh Hóa, hai bên gia đình không vào được mà công đoàn trường đứng ra tổ chức” - ông nhớ lại trong một nụ cười ấm áp. “Quay đi quay lại, vậy mà đã gần 50 năm trôi qua”. 
Suốt quãng ấy thời gian, bà và ông đã cùng đi bên nhau, chia sớt mọi buồn vui. Tài sản của họ là 2 người con đều giỏi giang, thành đạt, một làm cô giáo, một làm nhà báo, “có thêm mấy tập sách nữa cũng là tài sản quý”- ông bông đùa. Những câu thơ ông làm tặng vợ, nghe ông đọc như thấy nỗi rưng rưng: “Thương em khuya sớm vì anh/ Văn chương cái nợ sao đành buông lơi/ Mắt anh thăm thẳm tối trời/ Có em thư ký cho đời bớt đau/ Câu thơ thắp lửa nhiệm màu/ Nhân gian soi tỏ trao nhau ân tình”. Ôi là ân tình, cái ân tình đã níu ông trở lại với ánh ngày rạng rỡ. Và không chỉ gia đình, còn bao nhiêu bạn bè, đồng nghiệp, học trò, những người còn cần ông, luôn đến bên ông khi ông cần họ nữa. Ông nói rằng, mình đã sống bằng tất cả sự trân trọng và hàm ơn ấy.
Ông cũng chia sẻ: “Tôi đã ở tuổi 75 rồi, sức khỏe thì có hạn, nhưng nghị lực và ý chí thì như càng bền chắc. Niềm đam mê sáng tác đã giúp tôi khỏe và vui hơn mỗi ngày. Tôi dự định sắp ra một tập thơ mới hơn 100 bài cùng với 1 tập nghiên cứu “Hiểu biết và vận dụng thơ Đường luật trong nhà trường” trong 2 năm gần đây”.
Tôi nói đùa với ông: “Đúng là “trái tim thắp lửa nhiệm màu”, trái tim thầy, với bao nhiêu nhiệt huyết ấy đang là ngọn đuốc”. Ông nói, không dám đâu, là chỉ mong làm một ngọn đèn. Một ngọn đèn nhỏ, tỏa ánh sáng tin cậy, ấm áp yêu thương trước tiên trong chính mái nhà mình. 
Thùy Vinh

tin mới

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

(Baonghean.vn) - Thấu hiểu nỗi đau của những người vợ mất chồng, của con mất cha nơi biển lớn, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tại vùng biển Quỳnh Lưu đã tích cực đồng hành với những người phụ nữ yếu thế, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

(Baonghean.vn) - Hiếm có một vùng quê nào lại có nhiều người đỗ đạt thành danh và có nhiều di tích được xếp hạng như xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Nắm bắt lợi thế đó, gần đây địa phương này đã tiên phong phát triển du lịch, với những tour du lịch mang nhiều ý nghĩa.

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Lễ hội Hang Bua ở huyện Quỳ Châu là một sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Thái phía Tây Bắc Nghệ An. Sinh hoạt văn hóa này cũng là không gian lưu giữ những nét truyền thống của cư dân bản địa vừa góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

(Baonghean.vn) - Lễ hội Đền Cờn năm 2024 có nhiều hoạt động, trò chơi dân gian, nhưng đặc sắc nhất là tục chạy ói với màn rước kiệu, tung kiệu bay trên biển. Tục chạy ói thường được tổ chức vào sáng ngày 21 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, là nghi lễ quan trọng với ngư dân vùng biển.

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

(Baonghean.vn) - Nằm ở ngã ba sông, nơi hợp lưu của dòng Nậm Nơn và Nậm Mộ để hình thành nên dòng sông Cả kỳ vĩ bồi đắp cho vùng hạ du, đền Vạn - Cửa Rào được xem là ngôi đền linh thiêng nhất miền Tây xứ Nghệ. Sáng 1/3 (20 tháng Giêng), người dân muôn phương đã nô nức dự Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào.

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Hang Bua là thắng cảnh tự nhiên nằm trong dãy núi đá vôi “Phà Én” thuộc xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, cách thành phố Vinh 170km về phía Tây Bắc. Lễ hội Hang Bua là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào các dân tộc của huyện nói riêng và vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung.

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

Thăm phòng trưng bày 'Pỉ Noọng' của bà mế người Thái

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến, xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu có một phòng trưng bày rất đặc biệt mang tên Pỉ Noọng. Đây là không gian trưng bày vật dụng truyền thống của các dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Dao, Tày… do bà Sầm Thị Bích dày công sưu tầm từ những năm 1990 cho đến nay.