Nhà thơ - nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát: Viết để trả ơn xứ Nghệ
(Baonghean.vn) - Hẹn mãi mới có dịp ngồi hàn huyên với nhà thơ, nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát, người phụ nữ bước sang tuổi 70 mà trẻ trung, sung sức, tươi vui đến lạ. Không ai nghĩ vào tuổi này mà chị vẫn lái ô tô đi làm, vẫn làm phim, cùng đoàn đi quay khắp các vùng miền...
Thưa chị Hồng Ngát, điều gì khiến chị lúc nào cũng tràn đầy năng lượng và luôn vui vẻ như thế ạ?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Đơn giản lắm! Nghĩ tích cực và tìm đến công việc mà mình yêu thích, đam mê, mình sẽ vui và có động lực. Việc nào khiến cho ta mỏi mệt thì phải tìm cách dẹp bỏ ngay, mình có thói quen không tích trữ những việc tiêu cực trong đầu, như vậy ức chế lắm, không giải quyết được việc gì mà còn khiến mình mệt thêm. Hãy nhìn sự việc theo chiều hướng tích cực, mọi thứ sẽ rất thuận.
Nhà thơ - nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát. Ảnh: NVCC |
Có thể nói cuộc sống của chị bây giờ rất thanh thản, an vui, thành đạt, các con các cháu trưởng thành và đặc biệt là chồng chị, một nhà khoa học mẫu mực, một người chồng rất mực yêu thương vợ. Chị gắn bó với ông xã - nhà khoa học Phan Hồng Giang (bút danh của Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đức Hân - con trai thứ của Nhà phê bình văn học Hoài Thanh) hơn 30 năm, chị thực sự hạnh phúc chứ? Đàn ông Nghệ rất gia trưởng, nguyên tắc nhưng cũng rất tâm lý, vì gia đình. Tiến sỹ Phan Hồng Giang có giống vậy không ?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Phải khẳng định thế này, dù không có con chung với nhau nhưng hơn 30 năm qua, mình và chồng cực kỳ hạnh phúc. Ông xã làm khoa học, mình làm nghệ thuật, công việc tuy khác nhau nhưng bổ trợ cho nhau, giúp nhau sống cùng đam mê. Ông xã thương yêu các con, các cháu của mình như ruột thịt, là người cha đã định hướng nghề nghiệp cho các con. Mình hạnh phúc bởi ông ấy rất hiểu tính cách rất “đàn ông” của mình, vì mình quyết đoán lắm, nói là làm. Ông là dân Nghệ nhưng tính cách thâm trầm, nhường nhịn lắm trong khi đó mình rất nóng tính và quyết đoán. Làm dâu Nghệ nhưng không dịu dàng được. Mình mãn nguyện với cuộc sống của mình, đúng là mấy chục năm sống bên cạnh ông ấy, mình thăng hoa trong tình yêu và sự nghiệp. Ông xã không gia trưởng, không khó tính đâu, ngược lại rất hiền, rất chiều. Chiều con cháu lắm, khủng khiếp luôn. Mình cảm phục ông ấy ở trí tuệ và cách ứng xử ôn hòa, đàng hoàng, bao giờ cũng nhẹ nhàng.
Trở lại với sự nghiệp của mình, chị gắn bó với điện ảnh gần như cả cuộc đời và thơ cũng là một mảng đời sống không thể thiếu, chị sáng tác thơ và viết kịch bản có cùng thời điểm không?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Thơ mình viết từ hồi mười tám đôi mươi, viết thơ như một nhu cầu diễn tả đời sống nội tâm của mình, với những tình cảm tình yêu đầu đời thơ mộng. Một thời khốn khó nhưng cháy bỏng, đẹp lắm, đáng sống lắm! Yêu cũng da diết và ham sống mãnh liệt, mình viết khá nhiều những năm tháng đó và gửi gắm tiếng lòng mình một cách trọn vẹn, đủ đầy. Những tập thơ từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, như “Trái cam vàng” (1973), “Thơm hương mái tóc” (1982), “Nhớ và khát” (1984), “Ngôi nhà sau cơn bão” (1990), “Thơ tình chọn lọc” (1996)... là những dấu mốc quan trọng trong đời mình, tất cả mọi điều trong đời sống tâm tư của mình, mình gửi vào thơ cả. Còn với điện ảnh, mình viết kịch bản như mang nợ, nó gói ghém bao nhiêu trăn trở với cuộc đời. Những mảng hiện thực muôn màu được khai thác hết và điện ảnh đã thu nạp hiện thực một cách trực diện và đầy đủ.
Nhà thơ - nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát phát biểu tại buổi gặp mặt báo chí Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam - Cánh diều 2017. Ảnh: Internet |
Còn nhớ kịch bản “Nhìn ra biển cả”, chị viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn Người 20 tuổi, đang học Quốc học Huế, rồi vào Phan Thiết dạy học và sau đó lên tàu ra nước ngoài, bôn ba tìm đường cứu nước. Khi bắt tay viết kịch bản này, chị có gặp khó khăn nào không? Chị có thể kể lại một số kỷ niệm về bộ phim đáng nhớ này?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Ban Tuyên giáo có phát động một cuộc viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh và 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Thế thì mình là dâu xứ Nghệ sao mình lại không viết về Người? Hơn thế, với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nhân dân ai cũng yêu kính, nhất là văn nghệ sỹ đều muốn viết về một điều gì đấy, một đoạn đời nào đó của Người...
Khó khăn nhất khi mình viết kịch bản cho phim này là tìm tư liệu. Nội dung kịch bản xoay quanh quãng thời gian từ năm 1908 đến 1910, khi đó, Nguyễn Tất Thành mới ở độ tuổi mười tám, đôi mươi. Từ một học sinh trường Quốc học Huế, do tình nguyện làm thông ngôn cho bà con nông dân, tiểu thương trong một cuộc biểu tình chống sưu cao thuế nặng của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến mà Nguyễn Tất Thành đã bị buộc phải thôi học. Nguyễn Tất Thành rời Huế và đi khắp miền Nam Trung bộ, sống cùng người dân và chứng kiến cuộc sống lầm than của nhân dân dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Sau đó, Người vào Phan Thiết dạy học ở trường Dục Thanh. Từ Phan Thiết, Người đã theo một chuyến tàu buôn nước mắm vào Sài Gòn, để lại bức thư cho học trò và đồng nghiệp, Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu một hành trình khác trên con đường đi tìm chân lý đời mình: Tìm đường cứu nước. Hình ảnh con thuyền trên biển cả ở cuối trang sách và đồng hiện trên phim là biểu tượng đẹp đẽ về tuổi hai mươi đầy khát vọng của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành. Mình cố gắng viết bằng ngôn ngữ rất dung dị, đời thường. Đoạn đầu đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi 18 tuổi mình nghĩ là nó phải trong sáng, đẹp đẽ như thế. Trong tưởng tượng của người viết kịch bản, mình đã vừa dựa trên cơ sở có thật và cộng với trí tưởng tượng của mình cùng với tập thể đoàn phim đã làm được bộ phim hoàn chỉnh. Thế thì mình đặt ra cho mình nhiệm vụ như thế và mình tìm hiểu tư liệu của giai đoạn đấy. Khi đã đặt ra, nẩy ra một ý tưởng viết về giai đoạn nào thì mình tập trung để tìm hiểu tư liệu của giai đoạn đấy, mình có đọc “Búp sen xanh”của nhà văn Sơn Tùng. Và mình đã “lấy” tư liệu của ông trong giai đoạn Bác bị đuổi học khỏi Quốc học Huế.
Khi bắt tay vào để chuyển thể thành phim, đoàn làm phim do đạo diễn Vũ Châu và mình đã lên kế hoạch chi tiết cho từng cảnh quay, từ diễn viên chính đến diễn viên phụ, diễn viên quần chúng, đạo cụ, phục trang... Bối cảnh phim được thực hiện tại Huế, Hội An. “Nhìn ra biển cả” không nhiều bối cảnh hoành tráng nhưng lại khá công phu vì phải tạo dựng lại hoàn toàn cảnh trí, đạo cụ, phục trang của những năm đầu thế kỷ 20.Hồi ấy bọn mình vào làm, đương nhiên đi quay phim rất vất vả, ghi hình trong vòng 2 tháng, từ Huế rồi ra bán đảo Sơn Trà, để lấy những con đường làm những chặng đường mà Bác đi... Ngày ấy là đi lại bằng ngựa chứ làm gì có ô tô. Đấy là những kỉ niệm đáng nhớ khi làm phim “Nhìn ra biển cả” về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một giai đoạn ngắn nhưng khá quan trọng, tạo ra những bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Người.
Những dấu ấn không bao giờ quên của nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát về tác phẩm kịch bản “Nhìn ra biển cả” từ lúc bắt đầu đặt bút đến khi bộ phim hoàn thành và gây tiếng vang trong nền điện ảnh Việt Nam, là cả một quá trình sáng tạo nghệ thuật miệt mài, say mê, quên ăn quên ngủ. Chị có dự định viết kịch bản nào về xứ Nghệ không?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Không phải dự định nữa mà mình đã viết xong một kịch bản phim về xứ Nghệ, phim tài liệu “550 năm - Đất và người Nghi Lộc”, đây là mảnh đất với mình rất nhiều duyên nợ, là quê chồng. Nơi mình đi về hơn 30 năm gắn bó và thân thuộc, mình mang nợ đất này, con người xứ này. Kịch bản phim đã duyệt và đang bắt tay vào quay, Hãng phim truyện Việt Nam do đạo diễn Nguyễn Đức Việt cùng đoàn quay đã vào Nghi Lộc, Nghệ An quay cả tuần nay rồi. Mình rất mừng là trong cuộc đời của mình, đã thực hiện được một bộ phim về miền quê mình gắn bó, gần 70 tuổi mới thực hiện được. Ở tuổi này mình vẫn thích viết, muốn viết và thực hiện những dự định chưa làm, sẽ phải làm. Bộ phim về Nghi Lộc với mình là một cách mình làm để trả ơn.
Nguyễn Thị Hồng Ngát cùng chồng - nhà khoa học Phan Hồng Giang (bút danh của Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đức Hân- con trai thứ của Nhà phê bình văn học Hoài Thanh). Ảnh: NVCC |
Khi thực hiện viết về bộ phim tài liệu về quê hương Nghi Lộc, điều gì khiến chị xúc động nhất?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Tình người! Tình người xứ Nghệ sâu đậm lắm. Mình yêu chồng và lấy chồng cũng vì phẩm chất này. Người xứ Nghệ nói chung và Nghi Lộc nói riêng rất tình nghĩa, trước sau chung thủy trọn vẹn. Phẩm chất ấy đã đi vào văn chương. Mình đọc những tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ tên tuổi trong các dòng họ lớn ở Nghi Lộc như họ Nguyễn Đức (Nghi Trung), dòng họ nhà chồng, hay dòng họ Nguyễn Xí (Nghi Hợp)... là những cái nôi sinh ra những anh hùng hào kiệt, văn nhân. Tự hào lắm, trân trọng lắm!
Tình người xứ Nghệ đã khiến chị viết những câu thơ thật tình cảm và giàu hình ảnh trong bài thơ “Quê anh” có đúng vậy không ạ?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: (cười) “ ...Quả cà muối cũng mặn mòi đường duyên/ Người quê anh thảo lại hiền/ Đời em liệu có đáp đền được chăng/ Mưa trên sông Cấm giăng giăng/ Tay ai nâng trái cam vàng ngày xưa/... Gừng cay cũng chẳng nề hà/Quê anh muối mặn giờ là quê em”. Bài thơ này mình viết mấy chục năm rồi, gắn bó với Nghi Lộc từ thuở mới làm dâu xứ Nghệ. Thơ nói hộ tiếng lòng rồi nhỉ, càng ngày càng thắm đượm.
Với một tâm hồn đa cảm, nồng nàn, cháy bỏng, đam mê và trên hết là một sức sống mãnh liệt, yêu đời yêu người như chị, chị có tin là mình còn sáng tạo dài lâu?
Nguyễn Thị Hồng Ngát: Có chứ! Còn sống là còn viết, còn đi và tìm cảm hứng làm việc. Tuần tới mình về Nghệ An để phỏng vấn một số nhân vật cho phim. Đang còn nhiều việc chờ mình mà. Quan trọng là tinh thần, phải tích cực và vui nhé! Mọi việc đến với ta nhẹ nhàng hơn ta tưởng.
Trân trọng cảm ơn nhà thơ, nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát về cuộc trò chuyện thú vị, cởi mở này.