Nữ sĩ Hồ Xuân Hương - Vẻ đẹp, tài năng và ẩn số

Lâu nay, giới nghiên cứu đã tốn nhiều công sức và tâm huyết bàn về tiểu sử, sự nghiệp thơ văn Hồ Xuân Hương. Từ góc nhìn của người phụ nữ đồng hương với bà, lại có hạnh phúc nhiều năm được nghiên cứu, giảng dạy thơ văn bà và văn học Việt Nam nói chung cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, chúng tôi muốn trình bày một số suy nghĩ tâm đắc của mình.

1. Có một thực tế là tên tuổi Hồ Xuân Hương càng ngày càng được nhiều người biết đến, cả trong và ngoài nước. Ở Paris, ở Mạc Tư Khoa, ở Cornell Hoa Kỳ người ta dịch thơ bà. Cuối thế kỷ trước, hai dịch giả Phần Lan là Rauni Turkia và Kai Neiminen đã tuyển dịch thơ bà qua tập Những lời hỏi trăng (NXB Nostmomo - 1992), họ viết: "Theo chúng tôi, Hồ Xuân Hương là một tác giả có một không hai trong văn học thế giới. Ngôn ngữ trong thơ bà là tiếng Việt giàu nhạc điệu, với lối chơi chữ, sử dụng từ ngữ rất tài tình, thơ của bà luôn mang nhiều nghĩa, chính vì vậy thơ bà rất khó dịch... nhất là khi dịch sang ngôn ngữ phương Tây"(1).Vì vậy, có một số điểm đã khá rõ ràng về bà, giới nghiên cứu trong nước cần phải thống nhất ý kiến. Chẳng hạn, dù bà là con ông đồ Hồ Phi Diễn (?- ?), hay là con ông đồ Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783 ), em cùng cha khác mẹ với Song nguyên Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1738 - 1786) thì nàng đều có quê gốc là làng Quỳnh Đôi, bà là người con gái xứ Nghệ thứ thiệt! Cuối năm 1998, theo nguyện vọng của gia tộc họ Hồ, được sự giúp đỡ của Quỹ phát triển văn hóa Việt Nam - Thụy Điển, xã Quỳnh Đôi đã hoàn thành nhà bia tưởng niệm Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương. Bia khắc tiểu sử, sự nghiệp của bà bằng 4 thứ chữ Việt, Trung, Anh, Pháp. Nhà bia ở đầu làng Quỳnh Đôi, cách Quốc lộ 1A khoảng 2 km.

2. Từ trước đến nay, một số học giả có quan niệm người xứ Nghệ bảo thủ, cứng nhắc. Họ quên mất rằng các nhà canh tân lỗi lạc hàng đầu của dân tộc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... như Hồ Quý Ly (1336 - 1407), Nguyễn Huệ (1753 - 1792 ), Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871 ), Hồ Chí Minh (1890 - 1969) đều là con dân xứ Nghệ, hoặc chí ít cũng có nguồn gốc xứ Nghệ. Riêng trong lĩnh vực văn học, ngoài Hồ Xuân Hương, hai thi hào đồng hương với bà là Nguyễn Du (1765 - 1820), Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) đều có khát vọng sáng tạo lớn! Đó là chưa kể nữ sĩ với Hồ Quý Ly và Nguyễn Huệ cùng có chung một ông Tổ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật (thế kỷ X); chưa kể Hồ Xuân Hương và 3 anh em Tây Sơn có cùng ông tổ 5 đời là Hồ Sĩ Anh(3). Nhưng công bằng mà nói, Nguyễn Trường Tộ và nhất là Hồ Chí Minh đã đi khắp thế giới, sống và làm việc trong nhiều môi trường văn hóa khác nhau. Các danh nhân còn lại ở trên cũng đã đi khắp nước, chí ít cũng được thanh lọc và thăng hoa trong môi trường văn hóa đế đô. Riêng Hồ Xuân Hương sinh ra ở quê mẹ (Kinh Bắc hay Hải Dương?), sống nhiều năm ở phường Khán Xuân, gần Hồ Tây (khu vực Vườn Bách Thảo - Trường Bưởi - Đường Cổ Ngư- làng Yên Phụ)(4). Bà từng du lãm nhiều nơi: động Hương Tích (Mỹ Đức, Hà Đông); núi ông Chồng, Bà Chồng (trên đường lên Tuyên Quang); Kẽm Trống (Ninh Bình giáp Hà Nam); chùa Địch Lộng (Ninh Bình); đèo Ba Dội (Ninh Bình giáp Thanh Hóa); Quán Khánh (Thanh Hóa); vịnh Hạ Long (Quảng Ninh); rồi còn Nghệ An quê cha, Vĩnh Tường, Yên Quảng quê chồng... Kể ra, một người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đi và sống nhiều nơi như thế là vô cùng hiếm! Nhưng cũng phải đi như thế, tiếp thu tinh hoa nhiều vùng văn hóa, nhất là môi trường văn hóa Thăng Long, sáng tạo thi ca của bà mới đạt đến mức tuyệt vời có một không hai được!

3. Lần đầu tiên, bài thơ Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du "Cảm cứu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu" (Nhớ người cũ, viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu) với chú thích: Hầu người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân được ông Trần Thanh Mại công bố trên Tạp chí Văn học tháng 11/1964. Trên tuần báo Văn nghệ số 428 ra ngày 24 - 12 - 1971 hai ông Trương Chính, Lê Thước đã trích lại và dẫn luận kỹ càng. Sinh thời nhà thơ viện sĩ Xuân Diệu (1916 - 1985) vô cùng cảm động về cuộc tao ngộ văn chương kỳ thú này, vì ông cho rằng Truyện Kiều là tác phẩm "tót vời" của nguồn cổ điển, thơ Hồ Xuân Hương lại là tác phẩm "tót vời" của nguồn nôm na bình dân. Chúng tôi muốn nói thêm: giá như hai thiên tài khác giới có bản lĩnh người xứ Nghệ cao cường như nhau mà sống chung với nhau thì hạnh phúc hay bất hạnh đây? Các nhà nghiên cứu thường có nhận định giống nhau: Nguyễn Du vừa tiếp thụ tinh hoa văn học cổ điển vừa chú ý học hỏi tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai; còn Hồ Xuân Hương sử dụng tục ngữ, ca dao bình dân trong thơ mình thật nhuần nhị, chẳng hạn: "Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm/ Cầm bằng làm mướn, mướn không công, hay: Không có, nhưng mà có mới ngoan". Có lẽ cần chú ý thêm: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có sử dụng từ ngữ địa phương xứ Nghệ như ả, mụ, nghỉ, chi, đan, dậm, giật, giàm... còn trong thơ Hồ Xuân Hương ngôn ngữ và thổ âm nặng nề của quê hương Nghệ An hầu như không để lại dấu vết gì?

4. Trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX có 4 nhà thơ nữ kiệt xuất: Lê Ngọc Hân, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương. Thơ Nôm song thất lục bát của Ngọc Hân và Đoàn Thị Điểm thì kiệt tác Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều may ra mới sánh được! Còn thơ Nôm Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan và nhất là của nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì ngay cả các thi hào Tế Xương, Nguyễn Khuyến có lẽ cũng phải nhường bước! Đặc biệt, Hồ Xuân Hương đã thực hiện một cuộc cách tân lớn! Trong thơ bà cuộc sống đời thường trần trụi, chất phác, dân dã đã trở thành đối tượng thẩm mỹ đích thực. Vẻ đẹp thân thể người phụ nữ trở thành mẫu số chung cho các sáng tạo hình tượng nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương. Ngôn ngữ thông tục của đời sống ào ạt đi vào thơ bà và ngỡ như được "phù phép" để trở thành ngôn ngữ văn học tuyệt vời! Bà đã dân tộc hóa thể thơ Nôm Đường luật thành công nhất không phải ở việc đổi mới hình thức niêm luật nghiêm ngặt mà ở nội dung hết sức dân chủ của nó. Đến Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật đã đạt đỉnh cao nhất, nói như nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên: "So trước nhìn sau, mọi người đều thừa nhận rằng: Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc hơn và đại chúng hơn cả"(5). Có lẽ phải tìm cội nguồn sáng tạo của nữ sĩ chủ yếu ở nền văn hóa Thăng Long như đã trình bày ở mục 2. Bài học sáng tạo thành công của Hồ Xuân Hương cũng như của các thi hào đồng hương với bà là Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ chắc chắn còn rất có ý nghĩa cho các nhà thơ xứ Nghệ hiện nay!

5. Trong mảng thơ Nôm truyền tụng, có một số bài không phải của nữ sĩ, nhưng công việc phân biệt thật giả không đơn giản tí nào! Từ khi phát hiện Lưu hương ký, có người chủ trương dựa vào phong cách Lưu hương ký để tuyển lựa thơ Nôm truyền tụng. Nhưng cũng có người cho rằng ngay cả khi xác định được chắc chắn hai mảng thơ trên đều của một tác giả Hồ Xuân Hương, thì việc lấy một tập thơ trung bình như Lưu hương ký làm khuôn thước để đo đong một tập thơ độc đáo, đặc sắc như mảng thơ nôm truyền tụng tránh sao khỏi làm thiệt thòi cho cả tác giả lẫn bạn đọc, nhất là cho bạn đọc(6). Dẫu sao thì công việc giám định vẫn vô cùng cần thiết đối với đông đảo công chúng. Ngay một bài thơ hay như bài "Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ" có sách ghi của Hồ Xuân Hương, có sách ghi của Bà Huyện Thanh Quan. Các chuyên gia hàng đầu văn học Việt Nam cổ trung đại như Lê Trí Viễn, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Lộc, Đỗ Đức Hiểu, Đào Thái Tôn... đã chú ý nghiên cứu phong cách của hai tác giả rất khác nhau này, nhưng vẫn chưa kết luận được bài thơ trên của ai? Có lẽ cần phải có một người thật sự là tri âm, tri kỷ của hai nữ sĩ này chăng? Mà tìm được một người ngang tầm với thiên tài - kỳ nữ Hồ Xuân Hương đâu phải dễ!

6. Trong thời đại vẻ đẹp phụ nữ lên ngôi như hiện nay, có một khám phá về Hồ Xuân Hương của Gs.Đỗ Đức Hiểu cần được chú ý đúng mức. Ông vốn là một chuyên gia hàng đầu về văn học Pháp. Theo ông, thơ Hồ Xuân Hương "chủ yếu là ngày hội của bản năng, một Festivan của cơ thể người phụ nữ... Thế giới thơ nôm Hồ Xuân Hương là thế giới vô vàn scandales, những cú huých, những thách thức...". Ở Hồ Xuân Hương "không hề có "cái tục", mà chỉ có cái tự nhiên, cái đẹp, sức sống của tồn tại con người. Hồ Xuân Hương phản ứng dữ dội lối sống "phản tự nhiên ", lựa chọn chính khung cảnh nhà chùa để miêu tả cơ thể người phụ nữ, tình yêu bản năng, rõ ràng đó là thiên tài của nhà thơ, cũng như xưa kia ở phương Tây, Cervantès lựa chọn Don Quichotte, nhà hiệp sĩ để kết thúc loại tiểu thuyết hiệp sĩ thời Trung cổ ". Ông kết luận bài "Thế giới thơ nôm Hồ Xuân Hương" của mình: "Nếu thơ được định nghĩa như "văn bản của cái kỳ lạ", gây ngạc nhiên như Baudelaire nói, thì thơ nôm Hồ Xuân Hương rất thơ. Nó mang nhiều chất nổ của thời đại, thời đại của kinh kỳ, Phố Hiến, của trào lưu văn học nghệ thuật đòi giải phóng con người, ngợi ca tài năng, cái đẹp, nhất là của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương góp tiếng thơ đầy nhạc, biểu đạt sức sống và cái đẹp của cơ thể, của tấm thân và trái tim rất trẻ của người phụ nữ, trong định mệnh đầy cay đắng. Hồ Xuân Hương sáng tạo những cấu trúc ngôn ngữ đầy tài năng, đến nay chưa dễ ai hiểu hết"(7). Quả đúng cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Hồ Xuân Hương còn có nhiều ẩn số chưa dễ hiểu hết. Trên đây, mới chỉ là một số thu hoạch bước đầu. Hy vọng sẽ có dịp trở lại vấn đề một cách sâu hơn, thỏa đáng hơn?!❖
-----------------------------
Chú thích:
(1)- Dẫn lại theo Lê Minh Quốc: Kể chuyện danh nhân Việt Nam, T8: Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Nxb Trẻ, 2009, tr.75-76.
(3) Xem Văn Tân: Cách mạng Tây Sơn Nxb KHXH, 2004, tr. 28-29.
(4) - Lữ Huy Nguyên: Hồ Xuân Hương thơ và đời, Nxb Văn học, 1996, tr. 187 - 188.
(5) - Hoàng Hữu Yên: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế  kỷ XIX, NXB Giáo dục, 1990, tr. 124.
(6) - Xin xem Đỗ Lai Thúy: "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút" in trong Hồ Xuân Hương thơ và đời Tài liệu đã dẫn, tr.297 - 306.
(7) - Đỗ Đức Hiểu: Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, 2000, tr.71- 81.

Lưỡng Hà

tin mới

Bâng khuâng... làng nồi Trù Sơn

Bâng khuâng... làng nồi Trù Sơn

(Baonghean.vn) - Hội tụ đầy đủ tiềm năng, lợi thế để phát triển mô hình du lịch trải nghiệm, nhưng để nghề làm nồi đất Trù Sơn (Đô Lương) vươn xa thì còn cần rất nhiều yếu tố…

Lưu giữ điệu ru của người Thái cổ

Lưu giữ điệu ru của người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Để lưu giữ những làn điệu ru con của dân tộc Thái, các thành viên CLB Bảo tồn bản sắc văn hóa Thái tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu) đã thay nhau tìm hiểu, ghi chép lại các điệu hát ru, đồng thời tổ chức các lớp học để truyền dạy cho con cháu.

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

Điểm tựa của những người phụ nữ vùng biển

(Baonghean.vn) - Thấu hiểu nỗi đau của những người vợ mất chồng, của con mất cha nơi biển lớn, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tại vùng biển Quỳnh Lưu đã tích cực đồng hành với những người phụ nữ yếu thế, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn.

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

Làng khoa bảng ở Nghệ An làm du lịch

(Baonghean.vn) - Hiếm có một vùng quê nào lại có nhiều người đỗ đạt thành danh và có nhiều di tích được xếp hạng như xã Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Nắm bắt lợi thế đó, gần đây địa phương này đã tiên phong phát triển du lịch, với những tour du lịch mang nhiều ý nghĩa.

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

Cùng Mường Chiêng Ngam vui hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Lễ hội Hang Bua ở huyện Quỳ Châu là một sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Thái phía Tây Bắc Nghệ An. Sinh hoạt văn hóa này cũng là không gian lưu giữ những nét truyền thống của cư dân bản địa vừa góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

Trai làng biển vác 'kiệu bay' trong màn chạy ói, chen nhau 'cướp' lộc tại Lễ hội Đền Cờn

(Baonghean.vn) - Lễ hội Đền Cờn năm 2024 có nhiều hoạt động, trò chơi dân gian, nhưng đặc sắc nhất là tục chạy ói với màn rước kiệu, tung kiệu bay trên biển. Tục chạy ói thường được tổ chức vào sáng ngày 21 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, là nghi lễ quan trọng với ngư dân vùng biển.

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào: Tưởng nhớ công lao của Đốc tướng Đoàn Nhữ Hài và quân binh thời Trần

(Baonghean.vn) - Nằm ở ngã ba sông, nơi hợp lưu của dòng Nậm Nơn và Nậm Mộ để hình thành nên dòng sông Cả kỳ vĩ bồi đắp cho vùng hạ du, đền Vạn - Cửa Rào được xem là ngôi đền linh thiêng nhất miền Tây xứ Nghệ. Sáng 1/3 (20 tháng Giêng), người dân muôn phương đã nô nức dự Lễ hội đền Vạn - Cửa Rào.

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

Sẵn sàng cho Lễ hội Hang Bua

(Baonghean.vn) - Hang Bua là thắng cảnh tự nhiên nằm trong dãy núi đá vôi “Phà Én” thuộc xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, cách thành phố Vinh 170km về phía Tây Bắc. Lễ hội Hang Bua là một trong những lễ hội lớn nhất của đồng bào các dân tộc của huyện nói riêng và vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung.

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

Lưu mãi nét đẹp văn hoá Thổ ở làng Mo Mới

(Baonghean.vn) - Gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ là việc được các cấp ngành cùng đồng bào vùng Tây Bắc Nghệ An chú trọng. Ở làng Mo Mới, xã Nghĩa Xuân (Quỳ Hợp), bà con dân tộc Thổ tích cực sưu tầm, trao truyền những làn điệu dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

Người 'giữ lửa' nghề rèn truyền thống của người Mông

(Baonghean.vn) - Là thế hệ thứ 3 trong gia đình người Mông gắn bó với nghề rèn truyền thống, ông Và Tông Dê (Tương Dương) ngày ngày thổi lửa làm ra không biết bao nhiêu dụng cụ lao động cho bà con. Lò rèn không chỉ nuôi sống gia đình ông mà còn là nơi lưu giữ nghề truyền thống của đồng bào Mông.

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

Sắc Xuân trên trang phục phụ nữ dân tộc Mông

(Baonghean.vn) - Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, lên các bản làng vùng cao, đặc biệt là đến các bản có đồng bào Mông sinh sống, nhiều khách du lịch rất ấn tượng bởi sắc màu trên những bộ trang phục của người phụ nữ, dường như thấy được sắc Xuân trong đó...

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

Về miền Tây xứ Nghệ khám phá trang phục người Thái cổ

(Baonghean.vn) - Tại bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu), người dân nơi đây vẫn lưu giữ một bộ trang phục của người Thái cổ. Với những họa tiết, hoa văn được thêu một cách tỉ mỉ, kỳ công, bộ trang phục sau hơn 100 năm vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị vốn có.

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

Chuyện 'giữ' cá mát ở Nặm Cướm

(Baonghean.vn) - Qua một thời gian dài khai thác tận diệt, nguồn cá mát dần cạn kiệt. Trước thực trạng đó, năm 2023, chính quyền xã Diên Lãm (Quỳ Châu) đã ban hành đề án “Bảo tồn và phát triển nguồn lợi cá mát Nặm Cướm”…

Ngõ phố thắm tình dân

Ngõ phố thắm tình dân

(Baonghean.vn) - Các ngõ phố được trang hoàng sạch, đẹp để đón Tết nguyên đán Giáp Thìn 2024. Rất nhiều công trình, phần việc in dấu tình đoàn kết của các hộ dân. Điều đó càng tô thắm thêm tình dân trên mỗi ngõ phố ở thành Vinh. 

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

'Tôi tự hào là một người Nghệ'

(Baonghean.vn) - Mắc chứng teo cơ tủy sống từ nhỏ, chị Nguyễn Thị Vân (SN 1986), quê Nghi Lộc, được biết đến là một nhân vật có tầm ảnh hưởng tới xã hội, nhất là trong cộng đồng người khuyết tật. Trò chuyện với phóng viên Báo Nghệ An, chị tự hào nhận mình có những “cá tính” đặc trưng rất Nghệ.

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

Hoa 'tớ dày' xao xuyến miền rẻo cao Kỳ Sơn

(Baonghean.vn) - "Tớ dày" là cách gọi của đồng bào Mông về loài hoa anh đào. Những ngày này các bản làng ở xã Mường Típ, huyện rẻo cao Kỳ Sơn rực sắc "tớ dày". Bất cứ ai cũng trở nên bồi hồi xao xuyến trước loài hoa tuyệt đẹp này.

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

Tỉ mẩn nghề đan lưới lồng ở Nghi Long

(Baonghean.vn) - Gắn bó với nghề đan lưới lồng bè, những người làm nghề ở Trung Sơn (xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc) luôn trăn trở nâng cao tay nghề. Mỗi đường đan, nút thắt là cả sự tỉ mẩn gửi vào đó sự bền chắc của sản phẩm, giúp người nuôi trồng thuỷ sản thêm bội thu…