Hội chèo làng Bút

06/01/2014 18:17

(Baonghean) - “Ăn no rồi lại nằm khèo,

Nghe giục trống chèo vỗ bụng đi xem.

Chẳng thèm ăn chả ăn nem,

Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo”.

Đó là cái thời cả làng Bút (An Hòa – Quỳnh Lưu) vào mỗi dịp Tết Độc lập, Tết Nguyên đán hay dịp mừng Đảng, mừng Xuân lại rộn ràng, giục dã tiếng trống chèo. Người từ khắp các làng lân cận đổ về xem hội. Những vở diễn như: “Tống Trân Cúc Hoa”, “Thoại Khanh - Châu Tuấn”, “Đôi ngọc lưu ly”, “Lưu Bình - Dương Lễ”, “Thạch Sanh”, “Quan Âm Thị Kính”... làm nức lòng người xem.

Làng  hát chèo Quỳnh Hưng, Quỳnh Lưu hát đối đáp  trong cuộc thi Quê mình xứ Nghệ.Ảnh: Trần Tố
Làng hát chèo Quỳnh Hưng, Quỳnh Lưu hát đối đáp trong cuộc thi Quê mình xứ Nghệ. Ảnh: Trần Tố

Đội văn nghệ Bút Lĩnh khởi sắc vào những năm 1976 đến 1982. Với khoảng 10 diễn viên tập duyệt liên tục hàng tháng trời, dưới sự hướng dẫn của ông Vũ Đức Hảo (xóm 3 – Bút Lĩnh). Đội không chỉ biểu diễn ở đình làng mà còn đi khắp nơi trong vùng như Cầu Giát, Quỳnh Hồng, Quỳnh Long ... để lưu diễn.

“Chất trữ tình ở loại hình nghệ thuật dân gian này rất đậm đà. Câu chữ tự do, phóng khoáng, giàu tình cảm nên dễ đi vào lòng người. Vả lại, dân mình khi ấy còn khổ, đâu có được nghe đài, xem ti vi như bây giờ. Các đoàn nghệ thuật lưu động đâu phải khi nào họ cũng có điều kiện để về biểu diễn. Thế là chúng tôi toàn “cây nhà lá vườn” thôi nhưng được bà con yêu quý mến mộ lắm!” - ông Hảo tâm sự sau khi hát xong một trích đoạn “Lưu Bình - Dương Lễ”.

Ông Vũ Đức Hảo năm nay đã 70 tuổi, từng có thời gian phục vụ trong quân đội. Năm 1969, đang sinh hoạt ở Đội Tuyên truyền Văn hóa đoàn 22 (Thanh Hóa), ông may mắn được đơn vị tạo điều kiện cho theo học lớp viết kịch tại Trường Sáng tác Quân đội Hà Nội.

Niềm đam mê hát chèo kết hợp với nghiệp vụ viết kịch có điều kiện lớn lên và trưởng thành trong con người ông. Năm 1976, trở về sinh hoạt văn nghệ tại địa phương, ông đã chuyển thể thành công vở “Lục Vân Tiên” từ cải lương sang chèo, cũng như cho ra đời các vở ca ngợi cuộc sống mới như: “Bài ca thủy lợi”. Có lẽ tới tận bây giờ, nhiều người làng Bút vẫn không thể quên được các vai diễn chính do ông đóng, như vai Lục Vân Tiên, vai Dương Lễ hay vai Tâm trong “Cô gái sông Lam”...

Theo ông Hảo: “Những người có thể hát được chèo ở làng Bút hiện tại vẫn còn không dưới 20 người. Phần nhiều trong số họ đã từng có thời gian gắn bó với sân khấu đình làng”. Những “nghệ sĩ” chèo ngày xưa như ông Lê Văn Liêu, ông Đậu Cao Thiềng, bà Hồ Thị Tơ, bà Vũ Thị Nữ, bà Nguyễn Thị Xuân, ông Lê Văn Hớn... giờ ai cũng đã ở cái tuổi xế chiều, tóc nhuộm bạc, giọng run và cứng hơn. Họ không còn tự tin hát như xưa và cũng không ai còn nhớ được nguyên vẹn một vở diễn nào. Nhưng những làn điệu chèo vẫn được họ cất lên với tất cả hỉ, nộ, ái, ố và những cung bậc muôn màu của cuộc sống. Hát là để mình nghe, mình cảm, để bồi hồi nhớ lại cái thời tuổi trẻ say mê với trống chèo – ông Lê Văn Hớn, 56 tuổi (xóm 4 – Bút Lĩnh) chia sẻ. Vậy là ông khi đơm đó, khi dắt trâu, khi cày sâu, cuốc bẫm... cứ ngẫu hứng là hát, dường như những làn điệu chèo ngọt ngào, da diết đã thấm vào sâu trong tâm tưởng.

Ở cái tuổi 52, bà Vũ Thị Nữ (xóm 2 – Bút Lĩnh) vẫn mê hát chèo. Hát để quên đi những đêm dài đằng đẵng ru con, quên đi những nhọc nhằn một sương hai nắng, chân lấm tay bùn của nhà nông – bà Nữ tâm sự. Dẫu là đi cấy, đi chăn trâu hay cắt lúa, cắt cỏ, làm đó bà cũng hát. Đám người làng vẫn cứ bám theo sau để được nghe bà hát như cái thuở bà mới mười chín, đôi mươi. Bà hát cho tôi nghe một trích đoạn “Tấm Cám”, giọng cao mà trong, xúc cảm và say mê như chưa hề có những ngày dài vắng bóng.

Bà Nữ nhớ lại: “Hồi trước tui mê chèo lắm, cực nỗi các cụ thấy con gái đàn đúm hội hè thì không ưa. Bữa mô cũng bắt xay cho xong mấy thúng lúa mới cho đi tập. Đêm mà về khuya, phải xách dép kẹp nách không thì no đòn, rứa mà cứ ham, cứ thích”.

Hát chèo ở làng Bút tuy đã bị mai một, chiếu chèo của làng không còn nữa, nhưng với bà Nữ hát chèo vẫn như một phần của cuộc sống. Niềm đam mê và tình yêu đối với chèo vẫn được giữ gìn và tiếp nối trong gia đình thuần nông ấy. Những vở như “Tấm Cám”, “Chị Dậu”, “Quan Âm Thị Kính”... cứ rảnh rang bà lại tập cho con, thậm chí ngay cả lúc đi làm đồng mấy mẹ con bà cũng hát thi.

Như một hòn than dưới đống tro tàn, loại hình nghệ thuật dân gian này vẫn được những “nghệ sĩ” nông dân bình dị và mộc mạc như bà Nữ ấp iu, nhen nhóm. Hiện tại hai cô con gái của bà đang viết tiếp ước mơ dở dang của người mẹ say chèo nhưng cuộc đời gặp nhiều buồn tủi. Em Đậu Thị Thi, 24 tuổi, đang theo học hát chèo tại Đoàn Chèo Hải Phòng. Còn em Đậu Thị Hiền, 18 tuổi đang học năm nhất chuyên ngành diễn viên chèo, khoa Kịch hát dân tộc, Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội. Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, cả nhà sum họp, trên “sân khấu” thềm nhà bà Nữ và các con cùng nhau ôn lại những vở chèo mang âm hưởng vui tươi.

Tôi thật sự bất ngờ và thích thú khi được chứng kiến đứa cháu nhỏ của bà Nữ mới chỉ học mẫu giáo nhưng đã có thể hát làn điệu Đào Liễu (trích vở Tấm Cám) cũng nhấn, cũng luyến láy, cũng “i hì hi” truyền cảm hệt như bà: “Chàng ngủ dưới xoan đào. Thiếp ru, thiếp ru chàng ơi. Chàng ngủ giấc say nồng...”. Có lẽ đó cũng không phải là một điều quá khó hiểu, bởi từ khi mới lọt lòng em đã được nghe bà ru vỗ và tắm táp bằng những làn điệu chèo mượt mà, da diết ấy.

Dẫu rằng đó chỉ là những giai điệu không còn nguyên vẹn như xuất thân ban đầu của nó vì sai lời nhỡ phách, nhưng như thế em cũng đã may mắn hơn tôi, hơn bao con người sinh ra và lớn lên khi làng đã không còn cây đa, giếng nước, sân đình; chiếu chèo của làng đã trôi tuột về nơi nào xa vắng, không hẹn một ngày trở lại!

Nguyễn Thị Hòe

(Quỳnh Lưu)