Để vụ tôm xuân hè thắng lợi

31/03/2014 20:47

(Baonghean) - Theo số liệu của Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Nghệ An, năm 2013 mặc dù không nằm trong vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão số 10, số 11 nhưng hoàn lưu của nó đã gây thiệt hại lớn đến nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh (thiệt hại về diện tích: 6.274 ha, trong đó tôm: 470 ha, ngao 22 ha, cá nước ngọt 5.782 ha), ước tính thiệt hại khoảng 540 tỷ đồng. Với sự cố gắng của ngành cũng như sự nỗ lực của ngư dân, thủy sản cũng đã có những thành công đáng kể...

Năm 2013, diện tích nuôi tôm mặn lợ toàn tỉnh đạt 2.190 ha. Năng suất nuôi tôm thẻ chân trắng bình quân đạt 4,24 tấn/ha; Năng suất tôm sú bình quân đạt 0,56 tấn/ha. Đã xuất hiện một số hộ nuôi điển hình đạt năng suất 15 - 20 tấn/ha, ở nhiều vùng nuôi như: Phường Mai Hùng, xã Quỳnh Lập (TX Hoàng Mai); xã Quỳnh Thanh, Quỳnh Bảng (huyện Quỳnh Lưu); xã Diễn Trung (huyện Diễn Châu); xã Nghi Quang, Nghi Yên (huyện Nghi Lộc) đạt năng suất bình quân 8 tấn/ha.

Thu hoạch tôm ở Quỳnh Lưu. Ảnh: Công Sáng
Thu hoạch tôm ở Quỳnh Lưu. Ảnh: Công Sáng

Nuôi thủy sản nước ngọt cũng gặt hái nhiều thành công, đã xuất hiện nhiều hình thức nuôi mới, tiên tiến như: Nuôi cá rô phi đơn tính theo hướng VietGAP, năng suất trung bình 9 tấn/ha. Phong trào nuôi cá lồng bè trên sông suối, hồ đập tiếp tục phát triển. Tổng số lồng nuôi trên địa bàn tính đến thời điểm này là 333 lồng, cho sản lượng 33.125 tấn.

Hình thức nuôi ngày một đa dạng, nhiều hình thức nuôi đi đôi với bảo vệ môi trường được ứng dụng và bước đầu cho kết quả khả quan như nuôi thâm canh, bán thâm canh sử dụng chế phẩm sinh học, nuôi luân canh với hình thức một vụ tôm một vụ cá, nuôi tôm xen cua, tôm xen cá, nuôi quảng canh cải tiến... Trong đó hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh phát triển mạnh.

Ngay từ đầu năm 2014, Sở Nông nghiệp & PTNT đã có thông báo lịch thời vụ, theo đó các hộ nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh được phép thả giống cho vụ nuôi chính năm 2014 cụ thể: Đối với tôm thẻ chân trắng vụ 1 thả giống từ 15/3 đến 30/7; mật độ 70 - 100 con/m2; kích cỡ tôm giống P12. Vụ 2 chỉ áp dụng cho các vùng nuôi tôm có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt, môi trường nước đảm bảo yêu cầu kỹ. Nuôi tôm sú: Chỉ thả nuôi 1 vụ trong năm, thả giống từ 10/4 đến 30/5, trong đó: Nuôi thâm canh, bán thâm canh: mật độ 15 - 20 con/m2; kích cỡ tôm giống P15; Nuôi quảng canh cải tiến: Mật độ 6 - 8 con/m2, có thể kết hợp nuôi cua, một số loài cá nước lợ.

Đến thời điểm này các hộ nuôi tôm đang khẩn trương cải tạo ao đầm, lấy nước và tìm nguồn tôm giống chất lượng để thả nuôi kịp thời vụ. Do đó, việc tuân thủ các quy định, khuyến cáo của cơ quan chức năng cũng như các quy trình kỹ thuật là yếu tố quyết định sự thành công của vụ nuôi này.

Cụ thể, bà con chỉ nên thả nuôi 1 vụ/năm đối với tôm sú, và tôm thẻ chân trắng sau vụ chính những vùng nuôi có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt, môi trường nước ổn định đảm bảo thì mới tiến hành thả vụ phụ từ 15/9 đến 30/10.

Về các yêu cầu kỹ thuật bà con cần phải san vét lại ao nuôi, loại bỏ lớp bùn đen ra khỏi ao (đối với ao cũ), tiến hành cải tạo bằng cơ giới hóa (áp dụng đối với ao cũ và ao mới) đảm bảo các tiêu chí sau: Ao diện tích thích hợp từ 0,3 - 0,5 ha, độ sâu mức nước đạt 1,2 - 1,5 m, tiến hành bón vôi với liều lượng từ 700 - 1.000 kg/ha, phơi ao 7 - 10 ngày với mục đích hạn chế mầm bệnh của vụ nuôi trước.

Việc lấy và xử lý nước, bà con cần có ao lắng với tỷ lệ khoảng 30% tổng diện tích chủ động việc cấp nước vào ao nuôi. Bên cạnh đó, bà con phải thường xuyên theo dõi kết quả quan trắc môi trường khi cần lấy nước vào ao. Nước cấp vào ao nuôi cần cho qua túi lọc và xử lý thông qua ao lắng bằng cách để nước 3 - 5 ngày kết hợp với quạt nước để trứng giáp xác nở hết, sau đó bà con tiến hành diệt tạp bằng saponin với liều lượng 15 - 20 kg/1.000m3 hoặc một số sản phẩm được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép sử dụng; diệt khuẩn, virus trong ao bằng Chlorine với liều lượng 25 - 30kg/1.000m m3, Formol với liều lượng 20- 30 lít/1.000m3, hoặc thuốc tím (KMnO4) với liều lượng 5 - 8 kg/1.000m3.

Đối với việc gây màu nước, bà con có thể sử dụng các sản phẩm có chứa các thành phần chủ yếu như các vi sinh vật có lợi (nhóm Bacillus subtilis, Lactobacillus…), các vitamin, axit amin thiết yếu theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Đối với những ao khó gây màu bà con có thể sử dụng các chế phẩm sinh học kết hợp với bón phân urê (2 - 3 kg/1.000m3), bột cá (0,5 - 1 kg/1.000m3) liên tục 1 đến 2 ngày đến khi ao nuôi đạt các tiêu chuẩn như độ trong (30 - 40 cm), pH (7,5 - 8,5), độ kiềm (80 - 120 ppm), khí độc (< 0,1="" ppm)…="" tạo="" cho="" ao="" nuôi="" có="" màu="" xanh="" lục,="" vàng="" khuê="" thì="" có="" thể="" tiến="" hành="" thả="" tôm="">

Chọn tôm giống, cần chọn con giống đạt chuẩn Post 15 đối với tôm sú và Post 12 đối với tôm thẻ chân trắng, đồng thời thử chất lượng tôm giống bằng cảm quan với các tiêu chí như kích cỡ đồng đều, đường ruột to, tỉ lệ ruột/cơ đạt chuẩn 1/4, bơi lội linh hoạt. Tiến hành gây sốc bằng cách hạ đột ngột độ mặn chỉ còn 50% (ví dụ từ 20‰ xuống 10‰), hoặc sốc Formol với liều lượng 2 lít/10 lít nước trong 1 giờ, nếu tỉ lệ sống tôm trên 90% là đạt yêu cầu. Kiểm dịch tôm giống bằng phương pháp PCR tại các cơ quan kiểm dịch giống thủy sản để chắc chắn tôm giống khỏe mạnh, không mang mầm bệnh; Đối với tôm thẻ chân trắng, tôm giống trong đàn có độ đồng đều cao, đồng thời áp dụng các phương pháp chọn tôm giống tương tự như đối với tôm sú.

Về việc thả giống, bà con nên yêu cầu các trại giống thuần hóa độ mặn giữa trại ương tương ứng với độ mặn trong ao nuôi. Khi thả tôm giống cần chọn thời điểm trời mát (buổi sáng, chiều tối) và tiến hành ngâm bao tôm vào nước trong ao/hồ nuôi khoảng 30 phút để cân bằng nhiệt độ giữa nước trong bao chứa tôm và ao nuôi trước khi thả.

Trần Trung Thành