Phòng, trị bệnh cho một số loài cá nuôi

06/07/2015 10:09

(Baonghean) - Để giúp bà con nâng cao năng suất, sản lượng nuôi cá trong ao hồ, lồng bè, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh thường gặp ở cá và cách phòng trị như sau:

Bệnh nhiễm khuẩn

1. Bệnh trên các loài cá nuôi nước ngọt.

Vi khuẩn là một trong những tác nhân gây bệnh khá quan trọng, là trở lực chủ yếu kìm hãm phát triển và mở rộng sản xuất trong nuôi trồng thuỷ sản. Hầu hết các vi khuẩn gây bệnh là một phân của hệ vi sinh vật bình thường trong môi trường (nước biển, ao, hồ, sông rạch) và nói chung các vi khuẩn này được xem là tác nhận gây bệnh thứ cấp hoặc tác nhân gây bệnh cơ hội. Tuy nhiên cũng có một số ít các loài vi khuẩn là tác nhân khởi phát, bệnh xảy ra thường là do biến động các yếu tố môi trường hoặc do stress nhưng cũng có thể gây chết cao.

Tỷ lệ chết do nhiễm khuẩn có thể lên đến 100%, bệnh có thể xảy ra dưới dạng mãn tính, bán cấp tính và cấp tính.

Hầu hết các vi khuẩn gây bệnh trên thủy sản đều có những triệu chứng giống nhau, đặc biệt là trên cá.

1.1 Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.

Đối tượng nhiễm bệnh: Các loại cá nuôi nước ngọt; cá tra, cá basa, cá trê, cá điêu hồng, cá bống tượng, cá tai tượng... Cá con dễ mẫn cảm hơn cá trưởng thành, có thể gây chết đến 80%.

Dấu hiệu bệnh lý:

* Cá bệnh bị sẫm màu từng vùng ở bụng.

* Xuất hiện từng mảng đỏ trên cơ thể.

* Hoại tử đuôi, vây, xuất hiện các vết thương trên lưng, các khối u trên bề mặt cơ thể, vảy dễ rơi rụng.

* Mắt lồi, mờ đục và phù ra.

* Xoang bụng chứa dịch, nội tạng hoại tử.

Phòng trị:

+ Tránh tạo ra các tác nhân cơ hội như nhiễm ký sinh trùng (nhóm nguyên sinh động vật), tránh làm xây xát cá, vệ sinh không đúng quy định, nước giàu chất hữu cơ (môi trường nuôi nhiễm bẩn), mật độ nuôi quá dày, hàm lượng ôxy thấp, ô nhiễm từ các nguồn nước thải công nghiệp...

+ Dùng thuốc tím (KMnO4) tắm cá, liều dùng là 4 ppm (4g/m3 nước) đối với cá nuôi ao và 10 ppm (10g/m3 nước) đối với cá nuôi bè. Xử lý lập lại sau 3 ngày, định kỳ tắm cá một tuần, hai tuần hoặc một tháng/lần tuỳ thuộc vào tình trạng sức khỏe cá.

Dùng thuốc trộn vào thức ăn:

+ Oxytetracyline: 55-77 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 7-10 ngày (nên hạn chế sử dụng.

+ Enrofloxacin: 20 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 7-10 ngày.

+ Streptomycin: 50-75 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 5-7 ngày.

+ Kanamycin: 50 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 7 ngày.

+ Nhóm Sulfamid: 100-200 mg/kg, cho ăn 10-20 ngày.

1.2. Bệnh nhiễm khuẩn (bệnh đốm đỏ).

Đối tượng nhiễm bệnh: Các loài cá nuôi nước ngọt: cá tra, cá basa, cá trê, cá bống tượng, cá tai

tượng...

Dấu hiệu bệnh lý:

Xuất huyết từng đốm nhỏ trên da, chung quanh miệng và nắp mang, phía mặt bụng. Bề mặt cơ thể có thể chảy máu, tuột nhớt nhưng không xuất huyết vây và hậu môn.

Phòng bệnh:

* Giảm mật độ nuôi.

* Cung cấp nguồn nước tốt.

* Tắm 3-5 ppm (KMnO4) không quy định thời gian.

* Có thể dùng các loại kháng sinh để điều trị khi như trong bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.

1.3. Bệnh nhiễm khuẩn huyết:

Đối tượng nhiễm bệnh:

Các loài cá nuôi nước ngọt: cá tra, cá basa, cá trê, cá điêu hồng (cá rô phi đỏ), cá rô phi, cá bống tượng, cá tai tượng, cá chép...

Dấu hiệu bệnh lý:

+ Xuất hiện những vết thương nhỏ trên da (phía mặt lưng), đường kính khoảng 3-5mm, những vết thương này sẽ phát triển thành những khối u rỗng bên trong cơ, da bị mất sắc tố.

+ Cá mắc bệnh sẽ mất chức năng vận động do vây đuôi bị tưa rách. Có thể xuất hiện những vết thương bên dưới biểu bì, cơ, khi ấn vào sẽ phát ra khí có mùi hôi, các vết thương này sẽ gây hoại tử vùng cơ chung quanh.

+ Bệnh thường xảy ra trên cá lớn.

+ Trong ruột một vài loài rắn, cá và một vài loài bò sát, ếch nhái có thể là nguồn lây nhiễm mầm bệnh E. tarda.

+ Bệnh xuất hiện khi chất lượng nước trong môi trường nuôi xấu, nuôi với mật độ dày, nhiệt độ thích hợp để bệnh phát triển khoảng 30 độ. Tuy nhiên bệnh cũng xuất hiện khi nhiệt độ nước thấp hơn và dao động bất thường.

Phòng trị:

+ Cải tiến chất lượng nước trong môi trường nuôi.

+ Giảm thấp mật độ nuôi.

+ Dùng vaccin phòng bệnh.

+ Có thể dùng các loại kháng sinh để điều trị như trong bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.

2. Bệnh trên các loài cá nuôi nước mặn do nhóm Vibrio (Vibriosis).

Tác nhân gây bệnh: Vibriosis là những bệnh do nhóm Vibrio gây ra.

Đối tượng mắc bệnh:

* Các loài cá nuôi nước mặn như: cá mú, cá chẽm, cá măng...

* Khi bệnh bùng nổ, có thể gây chết cá đến 50% hoặc cao hơn ở cá nhỏ và tỷ lệ này sẽ giảm đối với cá lớn, tuy nhiên cá mắc bệnh sẽ bỏ ăn và kém tăng trưởng.

Dấu hiệu bệnh lý:

* Cá nhiễm các loài Vibrio thường bỏ ăn hoặc ăn kém.

* Từng vùng trên lưng cá hoặc toàn bộ biến màu sẫm.

* Xuất huyết điểm trên từng vùng của cơ thể, hoại tử vây.

* Mắt đục, lồi.

* Trong những trường hợp cấp tính cá có thể chết khi chưa có biểu hiện bệnh lý, ngoài trừ bụng trướng to.

* Cá nhiễm bệnh một thời gian dài thì mang cá bị bạc màu, xuất hiện những vết thương có thể ăn sâu vào trong cơ thể.

* Ở trại giống thì khi thấy cá trong bể ương xuất hiện những đốm đỏ thì đó là dấu hiệu của nhiễm Vibrio.

Phân bố:

* Các loài Vibrio phân bố rộng trong các thuỷ vực nước mặn và cửa sông. Bệnh thường xuất hiện nhiều trong mùa nước ấm và khi nồng độ muối trong nước cao, chất hữu cơ nhiều. Cá bị stress dễ đưa đến nhiễm Vibrio.

Phòng trị:

+ Dùng vaccin dể phòng bệnh.

+ Quản lý chất lượng nước tốt, giảm mật độ nuôi.

+ Có thể dùng OTC với liều 77 mg/kg thể trọng cá, dùng trong 10 ngày (nên hạn chế sử dụng).

+ Dùng Flumequine: 6mg/kg thể trọng cá nuôi, dùng trong 6 ngày.

+ Dùng Kanamycine: 50 mg/kg thể trọngcá nuôi, dùng trong 7 ngày.

+ Dùng Nhóm Sulfamid: 100 - 200 mg/kg thể trọng cá nuôi, dùng từ 10-20 ngày.

Lệ Hằng (Trung tâm Khuyến nông tỉnh)