Đình Sừng - Một di sản kiến trúc đặc sắc

23/04/2012 15:58

Nằm ở phía Bắc huyện Yên Thành, xã Lăng Thành có một ngôi đình cổ đã được nhiều người gần xa biết đến, có tên Đình Sừng. Cũng như bao ngôi đình khác của làng quê nước Việt, Đình Sừng xã Lăng Thành là ngôi đình lớn có giá trị kiến trúc và nghệ thuật, tồn tại trên 500 năm.

(Baonghean) - Nằm ở phía Bắc huyện Yên Thành, xã Lăng Thành có một ngôi đình cổ đã được nhiều người gần xa biết đến, có tên Đình Sừng. Cũng như bao ngôi đình khác của làng quê nước Việt, Đình Sừng xã Lăng Thành là ngôi đình lớn có giá trị kiến trúc và nghệ thuật, tồn tại trên 500 năm.

Làng Quỳ Lăng xưa có tên gọi Kẻ Sừng, ngôi làng cổ ẩn mình trong thế độc đáo, có lợi thế trong chiến tranh và tiềm năng phát triển kinh tế, vì vậy Kẻ Sừng xưa đã sớm trở thành một trong những trung tâm của Châu Diễn. Khi nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan trong châu để đặt ra Diễn Châu, làm thành một trong 12 châu của An Nam đô hộ Phủ năm 679, cho đến hết triều đại nhà Đinh năm 979, liên tục trong 3 thế kỷ, lị sở của Diễn Châu đóng ở Kẻ Sừng.

Tháng 11/1583, nhân dân làng Quỳ Lăng đã hợp lực xây dựng một ngôi đình để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa. Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một quần cư trù mật, quanh đình có làng mạc, cây đa, bến nước, có con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát cho ruộng đồng. Cùng với nhiều kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo, tinh túy của ngôi đình cổ. Năm 1797, làng dựng thêm tòa hậu cung để làm nơi thờ phụng Thành hoàng của làng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình được tu sửa vào các năm: 1637, 1677, 1787, 1913 và đến năm 1929 đình được trùng tu to đẹp như hiện nay. Việc này được các văn bia ở đây ghi rõ.

Đến đầu năm 1930, việc trùng tu lại đình được hoàn thành. Đình có kiến trúc thời Nguyễn quy mô đồ sộ, dài 24,7 mét; rộng 11,2 mét. Khung sườn nhà được làm bằng gỗ lim, kích thước lớn.

Về nghệ thuật, trên tất cả các bộ phận của đình như bờ nóc, con xô, xà, hạ, kẻ... đều được các nghệ nhân trang trí một cách công phu, thể hiện được tài nghệ điêu khắc, chạm trổ cao. Trên bờ nóc, con xô và hai mảng tường bít đốc, bằng các chất liệu sΩn có tại địa phương như vôi vữa và mật mía được các nghệ nhân trộn lẫn để đắp các hình tượng rồng chầu, phượng múa bằng những mảng phù điêu sinh động.

Trang trí trên gỗ, đề tài thể hiện ở đây cũng xoay quanh những mô típ quen thuộc như: " Tứ linh", " Tứ quý", nhưng bằng sự bố trí các mảng một cách hài hòa cân đối, toát lên vẻ sinh động thu hút người xem.

Có một điều khá thú vị, là đình do hai tốp thợ làm theo một mô típ đã định sΩn, nhiều mảng chạm trổ tuy cùng một đề tài, song thần thái, cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau. Điểm chung là tất cả đều toát lên tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống của một dân tộc, đó là : Thanh cao, tinh khiết, thủy chung, thuần hậu, kiên cường và tâm hồn hướng thiện.

Trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử, đình Sừng vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ Lăng. Trong những năm 1930-1931, đình là địa điểm hội họp bí mật của chi bộ Quỳ Lăng - một trong những chi bộ đầu tiên ở huyện Yên Thành. Trong khoảng thời gian 1932-1033, thực dân Pháp đã lấy đình Sừng làm nơi đóng đồn bang tá. Tại đây, bọn chúng đã giam cầm, bắt bớ tra tấn trên 100 cán bộ đảng viên. Ngày 12/8/1945, tại ngôi đình cổ quần chúng nhân dân Quỳ Lăng đã tập trung tổ chức cướp chính quyền từ tay phong kiến, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc vận động lớn như: Tuần lễ vàng, tuần lễ vũ khí, công phiếu kháng chiến, công phiếu quốc gia, là trường học, nơi chứa thóc cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, có thời gian dài, đình là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như : tế thần, rước kiệu, hát ả đào, ca trù, hát chèo, vật cù lộ, là nơi tổ chức hội họp của các tổ chức đoàn thể... Năm 2004, Đình Sừng được công nhận Di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2010, được sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư trùng tu nâng cấp một số hạng mục, nhằm gìn giữ những tư liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.


Thái Dương