Làng vạn chài khát khao con chữ
Theo thống kê của Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh, dọc sông Lam địa phận các huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn hiện có khoảng 735 hộ với gần 3.500 khẩu sống bằng nghề chài lưới, thuộc diện cần đưa lên bờ định cư. Dự án định cư cho người dân làng chài sớm sẽ không chỉ giúp người dân làng chài “an cư lạc nghiệp” mà còn đưa trẻ em làng chài đến gần hơn với ước mơ con chữ...
(Baonghean) Theo thống kê của Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh, dọc sông Lam địa phận các huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn hiện có khoảng 735 hộ với gần 3.500 khẩu sống bằng nghề chài lưới, thuộc diện cần đưa lên bờ định cư. Dự án định cư cho người dân làng chài sớm sẽ không chỉ giúp người dân làng chài “an cư lạc nghiệp” mà còn đưa trẻ em làng chài đến gần hơn với ước mơ con chữ...
Chúng tôi tìm đến xóm Vận Tải (xã Võ Liệt, Thanh Chương) vào buổi chiều nắng gắt. Dưới chân cầu Rộ là những chiếc thuyền cũ kỹ, rách nát. Từng đợt sóng xô vào mạn làm chiếc thuyền của bà Nguyễn Thị Hà chòng chành chực trôi đi. Buộc lại dây neo vào cọc sắt trên bờ, bà Hà cho biết: “Cả đời tui gắn bó với khúc sông này, với nghề buông câu thả lưới. Dân vạn chài tứ cố vô thân, không một tấc đất cắm dùi. Phận tui đã đành, nhưng tương lai các cháu cũng mù mịt lắm...”.
Các con bà đều vào Nam mưu sinh, 3 đứa cháu nội gửi cho bà nuôi nấng. Đứa nhỏ học lớp 1, đứa lớn học lớp 4. Trường Tiểu học Võ Liệt cách bờ không xa, hàng ngày mấy đứa trẻ dắt díu nhau đến lớp. Tiền học phí bố mẹ chúng tằn tiện gửi về, còn sách vở thì xin sách cũ của bạn. Nhưng khổ nhất vẫn là không có nơi để học hành tử tế. Nhà của 4 bà cháu là con thuyền đã rách nát, nước tràn vào xăm xắp. Trên nóc thuyền là chiếc ba-lô sờn cũ, đựng toàn bộ sách vở, bút, bảng của 3 đứa. Phía cuối thuyền là tấm ván mỏng kê trên mấy viên gạch táp lô làm bàn học. “Kê lên đó chứ mấy khi chúng nó dùng đến đâu vì thuyền thấp, chật, nếu ngồi phải khom lưng nên chúng kêu mỏi vai, cổ. Thường cả 3 đứa trải chiếu giữa thuyền rồi bò ra học... Hôm nào mưa gió, chúng lên bờ trú tạm nhà bạn. Nghĩ tội nghiệp”, bà Hà thở dài, mắt nhìn xa xăm ra dòng sông lấp loá nắng. Có lẽ vì sự học nhọc nhằn đó nên 40% trẻ em trong độ tuổi đến trường bỏ học giữa chừng vào Nam, ra Bắc kiếm sống.
Bà Nguyễn Thị Hà (xóm Vận Tải, xã Võ Liệt, Thanh Chương) cùng các cháu trên con thuyền mục nát.
Nằm nép mình sau rặng tre cằn cỗi, bên ngoài đê là xóm 16 (Hưng Long, Hưng Nguyên), cả xóm có 70 hộ, 300 nhân khẩu thì 100% sống bằng nghề sông nước. Trong đó chỉ có 30 hộ có đất dựng nhà, còn hơn nửa sống lênh đênh trên những con thuyền. Cuộc sống nổi nênh theo từng con nước nên tất cả các gia đình đều thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Để có tiền cho con theo học cái chữ, cha mẹ phải ngược xuôi nay neo thuyền khúc sông này, mai đậu chỗ khác buông lưới, thả câu. Các con đang nhỏ theo cha mẹ nay đây mai đó, đến tuổi đi học, cũng liều lên bờ dựng tạm túp lều tranh để con có chỗ ổn định đến trường. Anh Lưu Văn Tình (xóm 16, Hưng Long) cho biết: “Hai đứa nhỏ giờ đã đến tuổi đi học. Đứa lớn học lớp 7, đứa nhỏ vào mẫu giáo nên không thể đưa con theo. Biết dựng nhà trên bờ là vi phạm Luật Đất đai nhưng cũng đành liều để cho con cái có chỗ ổn định học hành...”.
Những gia đình khác, khi con đến tuổi đi học đều tìm cách gửi con ở nhà nội, ngoại hoặc người thân định cư trên bờ để con có điều kiện theo học. Bố mẹ làm nghề sông nước, đi biền biệt mấy ngày liền, việc học phó mặc cho con cái, thầy cô, được chăng hay chớ. Ông Lưu Văn Thông, xóm trưởng xóm 16, cho biết: “Sự học của con trẻ nơi đây nhọc nhằn lắm. Ngày 2 buổi đến trường, thời gian ở nhà đều do chúng tự giác, không người thúc dục, rèn cặp. Phụ huynh chẳng biết con mình học với thầy cô nào, lớp nào. Họp phụ huynh năm vài lần đều nhờ ông bà đi thay.
Điều đáng lo ngại nhất là việc đến trường của con trẻ vào những ngày mưa lũ. Những ngày nước lên, xóm 16 bị cô lập như một ốc đảo, để đến trường bên kia bờ đê, các gia đình dùng thuyền thay nhau chèo chống. Nước nhỏ, thuyền bị mắc cạn thì buộc áo quần, sách vở vào túi bóng, cha mẹ công kênh con trên vai để đến lớp. Khó khăn thế nhưng trẻ con ở đây vẫn đến trường hết đấy”. Nói đoạn, ông Thông giở cuốn sổ tay ghi chép ra và khoe: Cả xóm 100% trẻ trong độ tuổi được đến trường, số học hết THPT ngày càng nhiều, đặc biệt, mấy năm gần đây, xóm đã có 5 em theo học cao đẳng, trung cấp nghề. “Đời chúng tôi đã khổ vì không được học hành đến nơi đến chốn. Giờ có khó khăn đến mấy cũng phải cố gắng cho các cháu được đến trường. Biết đâu, sau này rồi “con hơn cha”…, chúng nó không phải lênh đênh sông nước nữa...” - ông ao ước.
Còn với trẻ em xóm chài dưới chân cầu Đô Lương (xã Đặng Sơn, Đô Lương) việc học hành là ước muốn xa vời. Không tấc đất cắm dùi, cuộc sống khó khăn khi tôm cá cạn kiệt, việc vận tải cát sạn trên sông giờ đã có những thuyền máy lớn, có băng tời, máy múc... Chạy ăn từng bữa đã bở hơi tai nên việc đầu tư cho con cái học hành chỉ là chuyện “thứ yếu”. Gia đình anh Nguyễn Đình In có 7 đứa con, nhưng chỉ có Nguyễn Đình Ngọc (SN 2000) là được đến trường.
Các anh chị của Ngọc là Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Đình Hồng, Nguyễn Đình Dung, Nguyễn Đình Ưng đều phải bỏ học từ năm lớp 1, lớp 3. Lý do khiến 6 đứa con của anh In không được đến lớp là vì hoàn cảnh quá nghèo, cha mẹ không đủ tiền cho con đóng học phí, tiền xây dựng. Anh In tâm sự: “Cuộc sống “tạm trú” trên bến dưới đò, chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, thu nhập của cả xóm bấp bênh theo từng con nước. Làm quần quật từ sáng đến tối nhưng thu nhập cũng chỉ 1 triệu đồng/tháng đổ lại, chẳng đủ chi tiêu, nói gì đến tiền đóng học cho con...”. Chính vì vậy, nhiều ông bố, bà mẹ dù thương con nhưng vẫn phải lao thuyền đi cá cả tháng trời mới về. Và khi không đủ sức xoay xở đành cắn răng chấp nhận cho con nghỉ học giữa chừng. Em Hoàng Thế Anh, học sinh lớp 8 cho biết: “Các chị trước em đã nghỉ học khi mới hết cấp 1. Em là con trai nên được ưu tiên học lên cấp 2. Nhưng hiện giờ hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chưa biết sẽ phải nghỉ học lúc nào. Em muốn được học lên cấp 3, được học đại học, được trở thành cán bộ công chức...”.
Chập choạng tối, gió từ sông Lam hun hút thổi vào những túp lều dựng tạm bên mép sông, những con thuyền dập dềnh theo con nước, dưới ánh điện le lói, những đứa trẻ vẫn miệt mài học. Sinh ra, lớn lên nếm trải cảnh vất vả, cơ cực của người dân vạn chài, cuộc sống lênh đênh sông nước của ông bà, cha mẹ nên lớp trẻ sau này ước ao đến trường, nỗ lực học để vươn lên, để thoát khỏi lời nguyền của dòng sông (sống vô gia cư, chết không địa táng). Và tôi tin rằng, với sự quan tâm của các cấp chính quyền, sự khát khao con chữ của những đứa trẻ vạn chài sẽ được chia sẻ, và tương lai của chúng “con sẽ hơn cha...”.
Thanh Phúc