“Nguồn sáng” của một thương binh mù

08/10/2012 18:48

Gần 2 năm trước, khi tìm đến nhà để thực hiện “đơn đặt hàng” của Hội Cựu chiến binh tỉnh cho cuốn “Ký ức cựu chiến binh”, chúng tôi thật sự cảm phục nghị lực phi thường của ông. Bởi lẽ, đã gần 45 năm đôi mắt không còn nhận biết được ánh sáng nhưng ông vẫn miệt mài với công tác xã hội. Ông không chỉ mở lớp dạy toán cho học trò trong làng, mà còn chơi một lúc 4 nhạc cụ một cách điêu luyện. Cuốn sách vừa được ấn hành, chúng tôi lại tìm đến nhà để tặng ông. phấn khởi ông “khoe”: “Đến nay, tôi đã góp phần dạy dỗ 7 học sinh vào đại học”. Ông là cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Đăng Khoa ở xóm 5, xã Nam Lĩnh (huyện Nam Đàn).

(Baonghean) Gần 2 năm trước, khi tìm đến nhà để thực hiện “đơn đặt hàng” của Hội Cựu chiến binh tỉnh cho cuốn “Ký ức cựu chiến binh”, chúng tôi thật sự cảm phục nghị lực phi thường của ông. Bởi lẽ, đã gần 45 năm đôi mắt không còn nhận biết được ánh sáng nhưng ông vẫn miệt mài với công tác xã hội. Ông không chỉ mở lớp dạy toán cho học trò trong làng, mà còn chơi một lúc 4 nhạc cụ một cách điêu luyện. Cuốn sách vừa được ấn hành, chúng tôi lại tìm đến nhà để tặng ông. phấn khởi ông “khoe”: “Đến nay, tôi đã góp phần dạy dỗ 7 học sinh vào đại học”. Ông là cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Đăng Khoa ở xóm 5, xã Nam Lĩnh (huyện Nam Đàn).

Người thầy soạn giáo án bằng trí tưởng tượng.

Năm 1964, chàng trai Nguyễn Đăng Khoa 22 tuổi, gác lại ước mơ trở thành thầy giáo dạy Toán, tình nguyện nhập ngũ, vào chiến trường, đến năm 1968 ông bị thương hỏng nặng đôi mắt. Trở về quê hương, dù mù lòa nhưng ông vẫn đứng trên bục giảng để truyền thụ tri thức cho các thế hệ học trò. Cơ duyên trở về với niềm mơ ước năm xưa là khi một lần sang nhà hàng xóm uống nước chè xanh, ông Khoa vô tình nghe được hai đứa trẻ đang trao đổi với nhau về một bài toán hình học. “Tranh luận mãi nhưng vẫn không đứa nào chịu đứa nào, bất chợt những kiến thức hình học ngày trước thức dậy trong đầu, tôi liền cầm hòn than vẽ hình giữa sân và giảng giải cho chúng”- ông Khoa kể. Bọn trẻ trố mắt nhìn, không thể ngờ được cách giải và đáp số của ông Khoa hoàn toàn khớp với hướng dẫn trong sách giáo khoa. Từ đó, hễ gặp bài toán khó, lũ trẻ trong làng lại tìm sang nhà ông Khoa nhờ ông giảng giải. Lũ học trò tìm đến ngày một đông, trong đầu ông Khoa bắt đầu hình thành ý tưởng tập hợp các em thành một lớp để tiết kiệm thời gian và thuận tiện cho việc giảng giải. Lúc đầu, các thành viên trong gia đình tỏ ra ái ngại, nhưng trước quyết tâm của ông và nhận thấy đó là một phần niềm vui, hạnh phúc tuổi già của ông, về sau tất cả mọi người đều ủng hộ.

Từ đó, mỗi buổi chiều, các lớp học toán do thầy giáo mù Nguyễn Đăng Khoa đứng lớp góp phần làm cho không khí làng quê trở nên rộn ràng, náo nức bởi tiếng học bài, tiếng nói cười của con trẻ. Thấy lớp học có hiệu quả, xã Nam Lĩnh mua tặng ông 6 bộ bàn ghế, rồi Phòng Giáo dục tặng ông 1 bảng chống lóa. Ở mỗi lớp, ông chọn 1 học trò khá nhất làm “trợ giảng”, có nhiệm vụ đọc đề và giúp ông viết công thức và kẻ vẽ hình. Sau khi nghe đọc đề, trong đầu ông lập tức định hình về quy trình, phương pháp và cách tiếp cận để tìm ra đáp số một cách nhanh nhất. Hỏi “Vì sao mắt không còn nhìn thấy mà ông vẫn có thể đảm nhiệm được vai trò của một người thầy dạy toán?”, ông Khoa trả lời: “Những kiến thức toán học, đặc biệt là hình học được học ngày xưa tôi còn nhớ khá rõ. Khi nghe xong đề bài, tôi tưởng tượng trong đầu về các góc, các cạnh, rồi huy động các công thức liên quan để tìm cách giải quyết hợp lý nhất”.



Lớp học Toán do người thương binh mù Nguyễn Đăng Khoa đứng lớp.

Từ đó đến nay đã 10 năm và ông Khoa đã mở được 10 lớp học tại gia (mỗi lớp trên dưới 20 em, chủ yếu là bậc THCS), khoảng 200 em nhỏ vùng quê nghèo Nam Lĩnh được củng cố kiến thức để vững vàng khi theo học các lớp học, cấp học cao hơn. Trong đó có 7 em đã bước vào giảng đường đại học. Điển hình như em Nguyễn Thị Thanh gặp phải hoàn cảnh éo le khi bố mẹ ly hôn nhau ở Đắk Lắk, em phải về quê sinh sống với gia đình người cậu ruột. Được ông Khoa kèm cặp, em Thanh nỗ lực vươn lên trong học tập và đạt danh hiệu học sinh nghèo vượt khó, được nhận quà của Tỉnh Đoàn.

Đến nay, em đã là sinh viên Khoa Tài nguyên- Môi trường của Trường Đại học Huế. Hay như em Nguyễn Minh Châu 3 lần phải phẫu thuật sứt môi- hở hàm ếch nhưng được ông Khoa động viên, em vẫn cố gắng bám lớp và học tập tốt. Nay Châu đã tốt nghiệp THPT và đã có việc làm ổn định. Và hầu hết học trò của ông đều là những “hạt nhân”, “mũi nhọn” của các lớp học ở trường. Điều đáng nói là dù bỏ thời gian, công sức (2 buổi/tuần) nhưng lớp học của ông Khoa tổ chức hoàn toàn miễn phí. Ông chia sẻ: “Khi hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tôi nhận thấy rằng, lúc sinh thời Bác Hồ dành nhiều tình cảm cho các cháu thiếu niên nhi đồng, trước lúc đi xa, Người còn để lại muôn vàn tình yêu thương cho các em nhỏ. Học theo Bác, tôi quyết tìm cách giúp đỡ các cháu thiếu nhi. Là thương binh nặng, được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt của Nhà nước, giờ giúp ích được gì cho con cháu gần xa, cho xóm giềng, cho quê hương thì lấy đó làm hạnh phúc”.

Không chỉ kiến thức về hình học, ông Nguyễn Đăng khoa còn nắm rất vững kiến thức về lịch sử, văn hóa và xã hội. Và mỗi khi “bí” về mảng kiến thức này, lũ trẻ trong làng cũng tìm đến ông. Những năm học trước, ngành Giáo dục Nam Đàn tổ chức cuộc thi “Em yêu quê hương” cho các trường THCS trên toàn huyện. Ông Khoa đã kịp thời bổ trợ những kiến thức về lịch sử, văn hóa để các em học sinh Trường THCS Nam Lĩnh dự thi thành công và giành được giải cao. Những kiến thức ông tích lũy chủ yếu được tiếp nhận qua các phương tiện truyền thông, bởi với ông “Một ngày không nghe, không đọc, không viết là tụt hậu một ngày. Đã mất đi nguồn ánh sáng thì phải vận dụng tối đa nguồn âm thanh để tiếp nhận và khám phá thế giới bên ngoài”. Rồi nét mặt ông trở nên rạng rỡ: “Cách đây gần 3 năm, Tôi được Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Bộ Giáo dục và Đào tạo trao tặng “Thẻ nhà giáo”. Lúc ấy tôi xúc động đến trào nước mắt, bởi lẽ ước mơ trở thành nhà giáo phải đến tuổi 68 mới thành hiện thực”.

Nghệ sỹ của làng quê

Ngày xuất ngũ trở về quê hương với đôi mắt mù lòa, không thể cầm cuốc, cày để trực tiếp lao động sản xuất, ông Nguyễn Đăng Khoa quyết định tham gia đội văn nghệ xã Nam Lĩnh, góp phần tuyên truyền phong trào lao động sản xuất và chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Ông Khoa trở thành một tuyên truyền viên xuất sắc, thường xuyên tìm hiểu và nêu gương những điển hình tiên tiến, cập nhật tiến độ sản xuất mùa vụ trên loa truyền thanh của xã. Và trong các buổi biểu diễn văn nghệ, bà con xã Nam Lĩnh thường được thưởng thức tiếng đàn măng- đô- lin của người thương binh mù đệm cho những khúc hát dân ca quê hương thêm mượt mà, sâu lắng. Bà con càng nể phục hơn khi người nhạc công mù tài ba có lúc chơi tới 4 nhạc cụ. Miệng thổi khèn ac-mô-ni- ca, tay chơi măng- đô- lin, 2 chân sử dụng bộ gõ, nhạc công Nguyễn Đăng Khoa có lúc giữ vai trò của cả dàn hợp xướng. Nhờ sự góp mặt của ông, đội văn nghệ xã Nam Lĩnh luôn dẫn đầu toàn huyện về thành tích biểu diễn. Thêm một điều đặc biệt, từ khi được tổ chức lần đầu tiên cho đến nay, Liên hoan Tiếng hát Làng Sen của tỉnh Nghệ An đã trải qua lần thứ 31 (1981- 2012), và trong 31 lần ấy “người nghệ sỹ mù” Nguyễn Đăng Khoa đều góp mặt và cùng làm nên thành công cho Đoàn Nghệ thuật quần chúng huyện Nam Đàn. Ông tâm sự: “Mình là người dân quê Bác, được đệm đàn và hát lên những khúc ca dâng lên Người còn có niềm vui sướng nào hơn. Vì thế, trong mỗi lần biểu diễn, hình như dòng cảm xúc tuôn trào đã dẫn nhịp cho điệu khèn, nhịp đàn và nhịp trống của tôi...”.

Hỏi về những danh hiệu được tặng thưởng, ông Nguyễn Đăng Khoa trả lời: “Nhiều, nhiều lắm! Có hàng chục cái, huân- huy chương, kỷ niệm chương, rồi bằng khen, giấy khen tôi để trong tủ cả”. Nói xong, ông với tay lên nóc tủ gỗ đưa chúng tôi xem Bằng khen của Ban Tuyên giáo Trung ương về thành tích đạt giải Đặc biệt cuộc thi “Tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh” (năm 2005), mấy Bằng khen của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, của Trung ương Đoàn và UBND tỉnh Nghệ An,...


Công Kiên