64% người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh

16/10/2012 19:37

(Baonghean.vn) - Đó là một trong những con số được đưa ra tại Hội nghị đánh giá kết quả Chương trình MTQG nước sạch và VSMT nông thôn giai đoạn 2006-2011 và triển khai giai đoạn 2012-2015 do Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức vào sáng nay 16/10, tại TP Vinh.

Chương trình MTQG Nước sạch và VSMT nông thôn giai đoạn 2006-1010 đã kết thúc, tuy nhiên đến tháng 3/102, Chính phủ mới phê duyệt giai đoạn 2012-1015. Giai đoạn 2006-2011, tổng nguồn vốn huy động thực hiện chương trình là 618,2 tỷ đồng. Đến hết năm 2011, theo tiêu chí của Bộ NN&PTNN, toàn tỉnh có 64% người dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 40% tỷ lệ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh; 80% số trạm y tế có công trình cấp nước và nhà tiêu hợp vệ sinh; 54% số trường học có công trình cấp nước và nhà tiêu hợp vệ sinh; 47% các điểm công cộng (trụ sở UBND xã, chợ nông thôn) được sử dụng nước hợp vệ sinh và 32% tỷ lệ hộ gia đình có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh.



Quang cảnh hội nghị

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình còn tồn tại một số hạn chế như: chất lượng kết quả đạt được chưa cao và chưa bền vững, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các chương trình và dự án liên quan, tiến độ thực hiện một số dự án cấp nước tập trung còn chậm, chính sách xã hội hóa, thúc đẩy đầu tư còn chưa được thực hiện do chưa hoàn thiện các văn bản hướng dẫn, quy định cần thiết… Hiện nay, việc phân bổ nguồn vốn Chương trình MTQG nước sạch và VSMT nông thôn và các chương trình lồng ghép khác của năm 2012 còn chậm và ngân sách tỉnh chưa đáp ứng nhu cầu kế hoạch đề xuất.

Kế hoạch thực hiện giai đoạn 2012-2015, tỷ lệ các nội dung trong chương trình tăng từ 15-20%. Trong đó, nội dung tỷ lệ số trạm y tế có công trình cấp nước sinh hoạt và nhà tiêu hợp vệ sinh đạt tiêu chuẩn là 100%. Để thực hiện được kế hoạch đề ra, chương trình cần đến 1.127 tỷ đồng. Một trong những biện pháp quan trọng là phối hợp lồng ghép các chương trình dự án, nguồn vốn trên địa bàn huyện, nâng cao công tác thông tin, giáo dục, truyền thông và tăng cường công tác xã hội hóa nguồn lực.


Phạm Bằng