Giải “hạn” cho những vùng đất "khát"

05/08/2013 15:54

Đã nhiều năm nay, mơ ước của hàng ngàn hộ dân các xã Văn Lợi, Minh Hợp, Đồng Hợp (Quỳ Hợp) là có đủ nước để dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Và trong nay mai, giấc mơ đó của người dân sẽ thành hiện thực khi Dự án xử lý nước sinh hoạt ở những xóm, điểm khó khăn do ảnh hưởng của môi trường được hoàn thành.Cán bộ xã chở nước đi làm

(Baonghean) - Đã nhiều năm nay, mơ ước của hàng ngàn hộ dân các xã Văn Lợi, Minh Hợp, Đồng Hợp (Quỳ Hợp) là có đủ nước để dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Và trong nay mai, giấc mơ đó của người dân sẽ thành hiện thực khi Dự án xử lý nước sinh hoạt ở những xóm, điểm khó khăn do ảnh hưởng của môi trường được hoàn thành.

Cán bộ xã chở nước đi làm


Những ngày cuối tháng Bảy, khi cơn mưa rừng dai dẳng ào ạt đổ xuống chúng tôi men theo con đường lầy lội đang thi công dở dang vào với đồng bào các dân tộc xã Văn Lợi (Quỳ Hợp). Với người lạ, mưa trút xuống thật não nề; còn với người dân địa phương, bất kỳ ai chúng tôi gặp, khuôn mặt cứ rạng ngời, hớn hở đến lạ. Nắm bắt được tâm lý chúng tôi, ông Chủ tịch UBMTTQ xã Phan Văn Báo thủng thẳng giải thích: “Đây là cơn mưa lớn nhất, kéo dài nhất mấy tháng qua ở Văn Lợi. Nó báo hiệu mùa mưa bắt đầu nên bà con ai cũng phấn khởi cả. Nói vui nhưng mà thật, ở Văn Lợi ai cũng thích mưa lụt vì có nước”. Nghe đến lụt lội, hẳn nhiên nhiều địa phương ai cũng phải dè chừng, nhưng cái chuyện ngược đời “thích mưa lụt” của người dân Văn Lợi, ông cán bộ mặt trận xã chia sẻ không phải không có lý do của nó.

Xã Văn Lợi có 927 hộ, 3.864 nhân khẩu, cư trú trên 10 xóm gồm cộng đồng các dân tộc Kinh, Thổ, Thái. Vì thiếu nước sản xuất nên cả xã chỉ có 13 ha ruộng nước tập trung ở 2 xóm Tây Lợi và Đại Thành, cũng là 2 xóm duy nhất đảm bảo được nước sinh hoạt. 8 xóm còn lại không hề có ruộng lúa nước nào, bà con chủ yếu trồng mía nguyên liệu. Ở những xóm này, đặc biệt là các xóm Bắc Lợi (78 hộ), Thắng Lợi (97 hộ), Xuân Lợi (87 hộ) và Văn Giai (51 hộ) luôn đối mặt với tình trạng thiếu nước quanh năm, nhất là vào giai đoạn mùa khô kéo dài từ tháng 11 âm lịch năm nay cho đến tháng 4 âm lịch năm sau. “Sống trên một thung lũng mà địa chất lớp đá vôi cứng, dày nên bao nhiêu nỗ lực khoan giếng của người dân hầu hết đều thất bại. Như trường hợp gia đình ông Trương Văn Hợp ở xóm Thắng Lợi phải bấm bụng thuê thợ khoan 3 mũi sâu 70 – 80m nhưng không hề tìm ra một giọt nước. Thế mới có hình ảnh hết sức quen thuộc nơi đây là các bể nước bằng bê tông được bà con xây cao vượt cả mái nhà để hứng nước vào mùa mưa và dùng dè xẻn quanh năm.

Dù đã “huy động” mọi vật dụng có được để tích trữ nước mưa, nhưng thiếu vẫn hoàn thiếu. Chị Thái Thị Thanh ở xóm Thắng Lợi, nước da ngăm đen, nụ cười tươi rói tiếp chuyện chúng tôi giữa lúc cơn mưa nặng hạt quất thẳng vào chái hiên nhỏ trước nhà. Mấy năm nay, chồng chị đi xuất khẩu lao động bên Israel nên nhà chỉ có 2 mẹ con. Ngần ấy người nhưng cái bể nước to tướng xây sát bên hông nhà vẫn không đủ dùng trong năm. Chị Thanh than trời: “Khổ lắm, năm nay, gia đình thiếu nước từ tháng Hai đến cuối tháng Sáu, sinh hoạt đảo lộn hết! May mấy hôm nay trời mưa to mới có nước dùng”. “Vậy mấy tháng qua lấy nước ở đâu mà sinh hoạt” – Tôi hỏi? “Tui phải vào tận Thung Voi cách 5 km xin nước chở về”, chị Thanh bồng đứa con vừa nhìn từng dòng nước chảy theo máng hứng vào bể với ánh mắt rất vui. Thiếu nước đối với người dân Văn Lợi cứ như căn bệnh “mãn tính”, không chừa gia đình nào, kể cả trường học, công sở. Hôm làm việc ở trụ sở xã Văn Lợi, ông Trương Thanh Tình – Phó Chủ tịch xã ngoài than khổ cho dân của mình, còn kể cho chúng tôi một chi tiết “thú vị”.

Đó là chuyện trong tháng Tư vừa rồi, do bể nước của xã bị thủng, bao nhiêu nước tích lũy được trong mùa mưa năm trước nhoắng cái đã chảy hết ra ngoài. Từ đó, không ai bảo ai, cán bộ xã Văn Lợi lúc đi làm đều phải mang theo cả chai coca nước để uống trong thời gian ở công sở. Riêng ông Tình ngày nào lên trụ sở cũng phải đèo bồng thêm can nước 5 lít sau xe. Bởi cái lý do cũng rất đặc thù, làm lãnh đạo nên tiếp khách nhiều, phải có nước để pha trà mời khách, rứa mà có ngày vẫn thiếu trước hụt sau. “Nhân dân Văn Lợi nhiều người cũng phải đi mua nước vào mùa khô. Cứ 1 xe công nông chở hơn 2 khối nước từ ngoài Thị trấn Quỳ Hợp hoặc xã Châu Đình vào có giá 300 ngàn đồng. Vừa rồi, xã phải mua 2,5 khối nước đổ vào bể. Anh em không còn cái cảnh lốc cốc mang nước theo nhưng cũng phải dùng hết sức dè xẻn”, ông Tình cho hay.

Không chỉ Văn Lợi, mà ở Quỳ Hợp, các xã Đồng Hợp, Minh Hợp đều được liệt kê vào danh sách tâm “khát”. Ông Nguyễn Trường Giang, Chủ tịch UBND xã Minh Hợp cho biết: “Xã có 10/21 xóm với 1.100 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, đặc biệt các xóm như Minh Thọ, Minh Thành, Minh Hồ, Minh Tân, Minh Tâm, Minh Thắng, Minh Hồng, Minh Cao, Minh Xá thiếu nước trầm trọng”.

Giải “hạn” cho đất “khát”

Chứng kiến cảnh nhân dân “khát” nước sinh hoạt đời này qua đời khác, lãnh đạo huyện Quỳ Hợp qua nhiều thế hệ hết sức trăn trở nhưng vẫn chưa tìm ra lời giải cho bài toán hóc búa này. May thay, trong chuyến làm việc của đồng chí Hồ Đức Phớc khi đó là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh (nay là Bí thư Tỉnh ủy) vào ngày 8/4/2013, những khó khăn về nước sinh hoạt được lãnh đạo huyện trình bày. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của bà con, trong kết luận buổi làm việc với huyện, đồng chí Hồ Đức Phớc đã chỉ đạo địa phương và các cấp, các ngành phải vào cuộc với tinh thần quyết liệt nhất để cải thiện điều kiện sinh hoạt của người dân. Đồng thời đích thân đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã giới thiệu cho lãnh đạo huyện DNTN Nhật Ký có trụ sở ở Gio Quang, Gio Linh, Quảng Trị với vị giám đốc Lý Văn Ký có nhiều kinh nghiệm trong thăm dò và khoan nước ở những vùng khô hạn trong cả nước.

Ngay lập tức, UBND huyện Quỳ Hợp đã lập báo cáo kỹ thuật Dự án xử lý nước sinh hoạt ở những xóm, điểm khó khăn do ảnh hưởng của môi trường với tổng mức đầu tư 2,47 tỷ đồng. Dự án được chia thành 2 giai đoạn gồm: khoan 18 giếng và lắp bơm để bơm nước; xây dựng tháp nước và bồn chứa nước có thể tích 3m3 cho mỗi giếng khoan. Hiện nay, sau quá trình khảo sát mạch nước của ông Lý Văn Ký, đội khoan giếng của DNTN Nhật Ký đã tiến hành khoan 5 giếng ở xã Đồng Hợp (cả 5 giếng đã có nước), 6 giếng ở Minh Hợp (5 giếng đã có nước), 6 giếng ở Văn Lợi (2 giếng đã có nước) và 1 giếng ở trụ sở Công an huyện Quỳ Hợp (đã có nước). Anh Nguyễn Chí Phong – Tổ trưởng tổ khoan cho biết: “Chúng tôi đã khoan giếng ở nhiều vùng khó khăn về mạch nước trên cả nước nhưng chưa bao giờ gặp khó như ở Quỳ Hợp. Đặc biệt ở xã Văn Lợi, nước mồi để khoan không có; địa chất phức tạp, nhiều đá trắng; mạch khô cũng nhiều, rất khó xác định mạch có nước. Tuy nhiên, với kết quả hiện nay, chúng tôi tin tưởng tất cả các giếng khoan đều có nước, đáp ứng mong mỏi bấy lâu nay của nhân dân địa phương”.



Nước trong vắt, mát lạnh trào lên từ lòng đất Minh Hợp khiến bà con rất vui.

Vừa quả quyết về thành công của những giếng khoan nước, anh Phong dẫn tôi đi xem 2 miệng giếng đã có nước đang được bao bọc cẩn thận chờ lắp bơm ở xóm Văn Giai và Trường THCS Văn Lợi, xã Văn Lợi. Còn tại xóm Minh Tâm, xã Minh Hợp, khi chúng tôi đến, tổ khoan giếng của DNTN Nhật Ký cũng vừa khoan thành công giếng thứ 5.

Nhìn dòng nước trong vắt, mát lạnh vụt trào lên từ lòng đất khô cằn, bác Lê Văn Sơn - Xóm trưởng không giấu nổi xúc động: “Xóm chúng tôi có 145 hộ, 600 nhân khẩu luôn sống trong tình trạng thiếu nước 5 tháng mỗi năm. Nhiều gia đình đã tự khoan giếng nhưng không thành công. Nay có dự án của Nhà nước khoan giếng cho nhân dân, chúng tôi rất phấn khởi. Hy vọng dự án sớm hoàn thành để nhân dân sớm thoát cảnh khó khăn vì thiếu nước sinh hoạt”. Ông Trương Hải Nam – Phó Ban QLDA huyện Quỳ Hợp cho biết: “Nhận được sự quan tâm của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, huyện Quỳ Hợp quyết tâm thực hiện Dự án thành công để cải thiện điều kiện sinh hoạt cho nhân dân. Trước mắt huyện đã trích 500 triệu đồng từ nguồn sự nghiệp môi trường để thực hiện hoàn thành giai đoạn 1 của dự án, phấn đấu sẽ hoàn thành trong năm nay. Phần kinh phí còn thiếu trong tổng mức đầu tư, chúng tôi đã làm tờ trình xin tỉnh hỗ trợ”.

Rời Quỳ Hợp khi cơn mưa rừng đã ngớt. Mong sao, đất Quỳ Hợp sẽ mở lòng cung cấp nguồn nước mát lạnh ổn định cho người dân vùng tâm khát. Để niềm vui mãi ánh lên trong ánh mắt, nụ cười những người dân miền núi vốn đã trăm nỗi gian lao, nhọc nhằn này.


Thành Duy - Thanh Phúc