Trở về từ "Địa ngục trần gian"
(Baonghean) - Chiều chiều, người dân xóm Thái Bình (xã Nghi Thái - Nghi Lộc) thường thấy ông với nụ cười hiền hậu, dáng đi cà nhắc, tay đẩy chiếc xe nhựa đưa cháu đi chơi quanh các trục đường làng. Ít ai biết, dấu chân ông đã in khắp chiến trường, thân ông từng bị đày đọa chốn ngục tù tàn bạo. Nhưng vẫn giữ trọn khí tiết! Ông là Vương Đức Thuận, thương binh, một chiến sỹ cộng sản bất khuất...
Niềm vui của ông Thuận bên cháu nhỏ. |
Khí tiết người cộng sản
Ngôi nhà đơn sơ của vợ chồng ông Vương Đức Thuận nằm giữa xóm nhỏ bình yên - đúng như tên gọi xóm Thái Bình. Chiều hè, những làn gió từ biển thổi vào mát rượi, ông Thuận kể chúng tôi nghe về những năm tháng lửa đạn và những năm tháng đối mặt với kẻ thù, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ là gang tấc. “Tôi đã sắp sửa bước vào tuổi 80, không còn nhớ hết tất cả những gì diễn ra trong cuộc đời mình. Riêng những năm tháng gian khổ, ác liệt và hiểm nguy, tôi còn nhớ khá rõ. Nói cách khác đó là những năm tháng không thể nào quên...”, ông Thuận mở đầu câu chuyện.
Ông Vương Đức Thuận sinh 1936, đến 1960, ông từ biệt bố mẹ già và 2 con nhỏ lên đường nhập ngũ. Theo cuộc trường chinh đánh Mỹ, bước chân của người lính này đã in dấu khắp chiến trường Lào, rồi trở về nước tham gia chiến đấu tại mặt trận Trị - Thiên. Trong chiến dịch Mậu Thân (1968), Vương Đức Thuận là 1 trong 27 chiến sỹ được Trung đoàn 10 đặc công (Quân khu 4) chọn đánh tập kích Khách sạn Hương Giang (Huế). Đây là nhiệm vụ vô cùng hiểm nguy, nên trước lúc xuất kích đơn vị đã làm lễ truy điệu sống cho các chiến sỹ. Theo kế hoạch, các chiến sỹ đặc công đột kích vào khách sạn, tiêu diệt khoảng 160 tên sỹ quan và lính Mỹ. Chưa kịp rút, địch đã điều một số lượng lớn đến bao vây, 25 người bị hy sinh, Vương Đức Thuận bị địch bắn gãy 2 chân và cùng một đồng đội nữa sa vào tay giặc.
Sau khi cứu chữa vết thương, Mỹ - Ngụy chuyển ông Thuận vào một trại giam ở Huế, rồi tiếp tục chuyển vào nhà giam Đà Nẵng. Địch đã dùng mọi nhục hình để tra tấn, người lính đặc công của Trung đoàn 10 không khai dù nửa lời. Bị liệt vào hạng “cứng đầu”, Vương Đức Thuận lập tức bị đày ra nhà giam Phú Quốc, nơi được xem là chốn “địa ngục trần gian”. Tại đây, ông đã không ít lần được “nếm” và chứng kiến cảnh cai ngục dùng các hình thức tra tấn dã man từ trung cổ đến hiện đại đối với các tù nhân cộng sản. Ông bị chúng tra tấn bằng cách dí điện, dội nước sôi, đóng đinh xuyên vào 2 đầu gối. Cho đến bây giờ, 2 đầu gối của ông vẫn lỗ chỗ những vết lõm sâu, là dấu tích của nhục hình tàn bạo ở nhà tù Phú Quốc.
Ông Thuận còn nhiều lần chứng kiến cảnh địch tra tấn các đồng chí, đồng đội cùng nhà giam. Trong đó, phải kể đến cảnh chúng dùng đinh đóng vào sọ của đồng chí Long (quê Quảng Trị), khiến đồng chí này hy sinh sau đó 8 ngày. Rồi cảnh chúng đào hố chôn sống tập thể một lúc mấy chục chiến sỹ của ta để thị uy. Đó là chưa kể đến cảnh nằm nơi bẩn thỉu, giòi bọ lúc nhúc; phải ăn cơm thiu, cá thối, uống nước bẩn, ít được tắm rửa; thường xuyên đối mặt với các loại dịch bệnh như kiết lỵ, thương hàn, lao phổi... Nhiều chiến sỹ bị địch đánh đập, tra tấn không chết nhưng cuối cùng lại chết vì dịch bệnh.
Các tù binh cộng sản vẫn tiếp tục móc nối liên lạc và hình thành tổ chức sinh hoạt, tập hợp lực lượng và xây dựng tình đoàn kết để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh một mất một còn. Tại đây, Vương Đức Thuận được đứng vào Ban Thường vụ Đảng ủy nhà tù Phú Quốc, phụ trách chi bộ 6. Người chiến sỹ cộng sản kiên trung ấy đã cùng các đồng chí, đồng đội chỉ đạo, vận động tổ chức các cuộc đấu tranh trong chốn lao tù, đòi cải thiện bữa ăn, được ra ngoài hưởng không khí trong lành, được cấp thuốc men khi đau yếu... Và điều quan trọng nhất, tổ chức Đảng trong nhà tù là điểm tựa vững chắc để những người cộng sản giữ vững ý chí chiến đấu, không khuất phục trước những thế lực hung tàn!
Đào hầm vượt ngục
Đầu năm 1971, Đảng ủy nhà tù Phú Quốc quyết định tổ chức, chỉ đạo anh em tù binh đào hầm vượt ngục. Với công việc vô cùng hệ trọng này, Vương Đức Thuận được đảng ủy cử làm trưởng ban chỉ đạo, có nhiệm vụ chỉ đạo chung, phối hợp với các đồng chí phụ trách lực lượng bảo vệ (12 đồng chí), phụ trách lực lượng đào hầm (20 đồng chí) và phụ trách lực lượng giấu đất (30 đồng chí), quyết tâm hoàn thành khoảng 150m đường hầm từ trại giam ra rừng tranh. Việc đào hầm chủ yếu được thực hiện vào ban đêm, khi bọn lính canh ít cảnh giác nhất. Trong chốn tù ngục, trong tay không có các loại dụng cụ đào đất (cuốc, xuổng, xẻng, xà beng), những người cộng sản đào hầm bằng cách nào?
Ông Thuận cho biết: “Không có dụng cụ, chúng tôi lấy nắp cà- mèn dùng đựng cơm để đào đất. Rồi lấy những miếng vải bạt chúng vứt lung tung ngoài vườn may thành bao tải đựng đất. Những chiếc bao tải đất này được bí mật chuyển ra ngoài vườn, nén chặt và lấy đất khô rải lên. Sáng mai dậy tuần tra, địch không hề hay biết những việc đã diễn tra trong đêm qua...”. Cứ thế, đêm này qua đêm khác, tháng này qua tháng khác, những người tù cộng sản kiên trì dùng nắp cà-mèn khoét từng thớ đất, nhẫn nại chuyển từng túi đất ra ngoài và tìm cách phi tang, che mắt kẻ địch.
Chúng ta biết rằng, đào hầm vượt ngục ở nhà tù Phú Quốc là việc làm vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Bởi lẽ, đảo nằm cách đất liền hàng trăm km, nhà tù được bố phòng cẩn mật với nhiều lớp hàng rào, bãi mìn, lính canh và chó bec-giê. Nếu có điều sơ suất, dù rất nhỏ để địch phát hiện ra kế hoạch này chắc hẳn không còn một ai trong tổ chức sống sót. Vậy mà Vương Đức Thuận và các đồng chí, đồng đội vẫn kiên gan trước mọi thử thách, sẵn sàng đón nhận tất cả, dù đó là sự hy sinh chính bản thân mình. Ông tâm sự: “Lúc ấy, tất cả chúng tôi không ai nghĩ đến đòn roi và cái chết, mà chỉ nghĩ cách đào hầm thật nhanh để sớm hoàn thành nhiệm vụ được giao...”.
Đêm 12/5/1971, sau khoảng hơn 4 tháng nhẫn nại khoét từng thớ đất, Vương Đức Thuận cùng các đồng chí của mình chợt ánh lên niềm vui sướng khi chọc lỗ thông hơi, thấy phía trên nhà những bụi cỏ tranh. Vậy là đường hầm đã xuyên qua bãi mìn ra rừng tranh, mục tiêu đã hoàn thành. Ngay trong đêm, Ban Thường vụ Đảng ủy họp và quyết định lựa chọn những người vượt ngục để ra ngoài tiếp tục bắt liên lạc và chiến đấu. Hầu hết các đồng chí trong Ban Thường vụ và bí thư các chi bộ đều có trong danh sách, trong đó có Vương Đức Thuận. Nhưng điều bất ngờ đã xẩy ra, ông Thuận đề nghị với cấp trên: “Tôi xin ở lại!”. Sau khi 28 đồng chí vượt ngục thành công, địch phát hiện và tra hỏi, Vương Đức Thuận trả lời: “Tôi không hề biết kế hoạch này, nếu biết tôi cũng đã vượt ra ngoài, giờ không còn ở đây để các anh tra hỏi”.
Câu trả lời thông minh này đã đánh lừa được kẻ địch, khiến chúng không lần ra được manh mối để điều tra. Còn tất cả các đồng chí vượt ngục trong đêm ấy đều bắt liên lạc được với Tỉnh đội Kiên Giang và trở về hoạt động, chiến đấu ở địa bàn Sài Gòn và miền Đông Nam bộ. Nhiều người lập được chiến công lớn, trở thành những sỹ quan cao cấp của quân đội, có người được phong danh hiệu Anh hùng LLVTND. Mỗi người sinh sống ở một miền quê, vẫn thường xuyên giữ liên lạc để ôn lại những kỷ niệm năm xưa trong chốn tù ngục, về kỳ tích đào hầm bí mật để thoát khỏi “địa ngục trần gian”.
Đặc biệt, trong hồ sơ đề nghị công nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND, ông Lê Văn Kiệm - Chủ tịch Hội Chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù đày xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) xác nhận: “Suốt quá trình ở trong tù, đồng chí Vương Đức Thuận là người lãnh đạo kiên trung, bất khuất, dũng cảm đấu tranh với kẻ địch và không đầu hàng địch. Đồng chí đã giữ vững khí tiết của người cộng sản, được tổ chức Đảng tin tưởng và anh em mến phục!”.
“Liệt sỹ” trở về
Sau Hiệp định Pa-ri (1973), Vương Đức Thuận và những người tù cộng sản được trao trả và ra miền Bắc an dưỡng. Ông vẫn còn nhớ như in ngày dừng chân bên bờ sông Thạch Hãn (Quảng Trị) để làm lễ trao trả, cảm giác bồi hồi, xúc động chợt ùa về. Trong chốn ngục tù với đủ các nhục hình tàn bạo, ông không hề nhỏ dù một giọt nước mắt, vậy mà giờ phút này ông đã khóc. Người tù năm xưa chia sẻ: “Hơn 13 năm biền biệt, đối mặt với bao hiểm nguy, nhiều lúc cái chết cận kề, tình cảm gia đình, quê hương phải nén xuống tận đáy lòng. Giây phút ấy như có sự bung tỏa, nước mắt chợt trào ra...”.
Việc ông Thuận trở về quê cũng là một “sự kiện” của cả vùng quê Nghi Thái. Bởi lẽ, năm 1968, sau trận đột kích khách sạn Hương Giang, đơn vị đã gửi giấy báo tử về cho gia đình, chính quyền địa phương đã tổ chức lễ truy điệu. Những người thân đã khóc thương cạn nước mắt, gia đình đã làm 4 lần giỗ cho ông. Bà Vương Thị Hồng- vợ ông Thuận nhớ lại: “Chiều tối, một người đàn ông với vẻ ốm yếu, gầy gò, chân cà nhắc bước vào sân nhà và gọi tên tôi. Tôi giật mình, vì đó là giọng nói và khuôn mặt của chồng. Không lẽ ông ấy vẫn còn sống? Khi rõ sự tình, tôi vừa mừng vừa tủi, rồi bà con hàng xóm đến rất đông. Riêng đứa con gái thứ 2 không chịu nhận bố vì người này không giống người trong bức ảnh”!
Trở về quê, Vương Đức Thuận được bố trí làm cán bộ Phòng Chính sách Tỉnh đội Nghệ An. Khi chiến tranh Biên giới phía Bắc nổ ra, một lần nữa ông lại tình nguyện đăng ký lên đường. Nhưng sức khỏe giảm sút và thương tật đầy mình, cấp trên không đồng ý cho ông tham gia. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, thương bố mẹ già yếu, thương vợ vất vả nuôi con nhỏ, ông Thuận xin về để được hỗ trợ gia đình, chia sẻ gánh nặng với người vợ bao năm tần tảo một mình. Vậy là ông lại được trở về với đồng ruộng quê hương, trở thành một lão nông cần cù, chất phác...
Công Kiên