Tìm hướng đi cho sản phẩm làng nghề: Bài 1: Thiếu thương hiệu
(Baonghean) - Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 06/NQ - TU về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng làng nghề giai đoạn 2011 - 2020, tỉnh ta đã có 133 làng nghề và hơn 400 làng có nghề. Các làng nghề đã giải quyết được một số lượng lớn lao động dôi dư ở địa phương, đặc biệt là lao động ở vùng nông thôn; từng bước giải bài toán “ly nông bất ly hương”, ổn định an sinh xã hội; góp phần gìn giữ văn hóa đặc trưng của từng khu vực, từng địa phương. Tuy nhiên, nhiều làng nghề gặp không ít khó khăn trong sản xuất và đặc biệt là tiêu thụ sản phẩm...
“Bí” đầu ra…
Trong số các làng nghề đã được công nhận trên địa bàn tỉnh, làng nghề mây tre đan chiếm số lượng lớn nhất với 43 làng nghề và hơn 13 ngàn lao động hoạt động nghề, trong đó có hơn 3.700 lao động thường xuyên. Trước đây, các làng nghề mây tre đan nhiều thời điểm phát triển mạnh mẽ, đóng góp một phần không nhỏ vào việc giải quyết lao động ở nông thôn, bảo tồn nét văn hóa dân tộc và tạo ra được nhiều mặt hàng phục vụ xuất khẩu, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, những năm gần đây, hầu hết các làng nghề mây tre đan chỉ phát triển cầm chừng bởi không chủ động được nguồn nguyên liệu, giá cả tăng cao, trong khi đầu ra khó khăn. Theo xếp loại hoạt động của các làng nghề năm 2014 của Liên minh HTX tỉnh, trong số 43 làng nghề, chỉ có huyện Nghi Lộc là có 14/14 làng nghề mây tre đan duy trì ổn định, còn lại ở huyện khác, các làng nghề mây tre đan đều hoạt động èo uột. Như huyện Diễn Châu có 4 làng nghề thì cả 4 đều bị xếp loại yếu kém; huyện Quỳnh Lưu có 9 làng nghề thì chỉ có làng nghề mây tre đan Đồng Văn ở xã Quỳnh Diễn là hoạt động ổn định, còn 8 làng nghề còn lại đều trong tình trạng yếu kém.
Sản xuất mây tre đan xuất khẩu ở xã Quỳnh Diện (Quỳnh Lưu). |
Giá trị từ nghề mây tre đan còn thấp, việc phát triển còn mang tính tự phát, phân tán, thiếu tính bền vững, quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Hơn nữa, tác phong sản xuất còn mang nặng tính nông nhàn, liên kết thiếu chặt chẽ, mẫu mã và thị trường hạn chế nên chưa có sự cạnh tranh về giá cả. Trước đây, toàn tỉnh có hơn 10 doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm cho các làng nghề mây tre đan, nhưng hiện chỉ còn 6 doanh nghiệp và phần lớn trong số đó có quy mô nhỏ, khả năng thích nghi, phản ứng nhanh trước những biến động của thị trường còn yếu. Do đó, sản phẩm mây tre đan của các làng nghề Nghệ An dù đã có mặt ở nhiều thị trường quốc tế nhưng giá thành thấp và số lượng đơn hàng giảm.
Cùng với mây tre đan, nhiều năm trước, thổ cẩm là một trong những sản phẩm được tỉnh ta đầu tư nhiều, đặc biệt là hỗ trợ phát triển nghề và quảng bá giới thiệu sản phẩm. Đây cũng là một mặt hàng được kỳ vọng sẽ tạo thành sản phẩm du lịch, bởi dệt thổ cẩm vốn là nghề truyền thống lâu đời của các huyện miền núi miền Tây Nghệ An và là nét văn hóa không thể tách rời của đồng bào các dân tộc. Nhưng vấn đề tiêu thụ sản phẩm gặp không ít khó khăn và đây là một trong những nguyên nhân khiến cho ngành nghề bị “chững” lại, chưa phát triển như kỳ vọng. Hợp tác xã làng nghề dệt thổ cẩm Hoa Tiến mỗi năm sản xuất được trên 4.000 sản phẩm các loại, chủ yếu được tiêu thụ qua đơn vị trung gian là Trung tâm nghiên cứu liên kết hàng thổ cẩm, mỹ nghệ Hà Nội. Việc tiêu thụ thông qua các hội chợ rất ít vì mỗi một năm đơn vị chỉ được hỗ trợ tham gia từ một đến hai hội chợ.
Chị Hà Thị Phương Vân, Chủ nhiệm Hợp tác xã dệt may thổ cẩm Hải Vân, sau gần 10 năm lăn lộn với công tác đào tạo nghề dệt thổ cẩm cho các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Thanh Chương, Tân Kỳ, Quỳ Châu và dành nhiều tâm huyết cho sản phẩm thổ cẩm Nghệ An tâm sự: “Sản phẩm thổ cẩm Nghệ An tuy có nhiều họa tiết đặc sắc nhưng khó tiêu thụ. Bởi lẽ, người lao động ở tỉnh ta chưa thức thời, chỉ làm những sản phẩm theo truyền thống, theo sở thích cá nhân nên chưa thu hút được khách du lịch. Ví như, chúng ta mất một hai tháng để làm những sản phẩm có giá trị từ 500 - 700.000 đồng, trong khi khách du lịch chỉ cần những sản phẩm nhỏ nhỏ, xinh xinh với mức giá vừa phải. Nếu nhận được đơn hàng lớn thì cũng khó hoàn thành bởi lao động làm trong nghề dệt thổ cẩm chủ yếu là người trung tuổi, làm trong thời gian nông nhàn nên chưa xác định đây là nghề đem thu nhập chính, tay nghề cũng không cao, thiếu thợ giỏi để tạo ra các sản phẩm mới...”.
Cùng với mây tre đan, thổ cẩm, các nghề làm mộc, làm đá, nghề làm các sản phẩm thủ công từ vỏ sò cũng ngày càng bị mai một và bị các sản phẩm từ các tỉnh thành khác cạnh tranh ngay tại sân nhà. Trăn trở rất nhiều về vấn đề này, ông Trần Văn Huy, Trưởng phòng Tư vấn chính sách - Liên minh Hợp tác xã cho rằng: Lâu nay chúng ta chỉ phát triển làng nghề theo số lượng chứ chưa đầu tư về chất lượng, thiếu những ngành nghề mũi nhọn. Vì vậy, sản phẩm làm ra cứ na ná nhau, không có sự đầu tư, không mang dấu ấn làng nghề, màu sắc vùng miền. Chúng ta cũng chưa có nhiều sự đầu tư vào mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Nguyên nhân là thợ thủ công lành nghề ở nhiều làng nghề còn thiếu, nhất là thợ thủ công tay nghề cao. Các làng nghề vẫn còn phát triển tự phát, theo kiểu cha truyền con nối, chưa thực sự có một chiến lược căn cơ để phát triển sản phẩm của làng nghề. Mặt khác, hoạt động sản xuất của làng nghề chủ yếu ở quy mô gia đình, nên việc đầu tư thiết bị công nghệ để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm rất hạn chế. Liên kết trong sản xuất giữa các gia đình chưa chặt chẽ, nên chưa tận dụng được các dịch vụ chung để giảm chi phí sản xuất và chi phí lưu thông. Do vậy, ngoài khả năng cạnh tranh về mẫu mã, khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm làng nghề cũng gặp nhiều khó khăn. Các làng nghề vẫn sản xuất ra những gì mình có, mẫu mã quen thuộc, chứ chưa phải sản xuất ra những gì mà thị trường cần.
Gian nan xây dựng thương hiệu
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại như hiện nay, để các làng nghề truyền thống của tỉnh phát triển bền vững, xây dựng thương hiệu là việc làm cần thiết và là hướng đi đúng. Khi xây dựng được thương hiệu sẽ tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm, việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sẽ thuận lợi hơn, đặc biệt, các mặt hàng xuất khẩu sẽ không phải qua các khâu trung gian hay dùng thương hiệu của đối tác khi xuất khẩu, từ đó, tăng giá trị và doanh thu cho làng nghề. Nhưng thực tế đáng buồn là các sản phẩm làng nghề ở tỉnh ta chưa có thương hiệu “nức tiếng” cả vùng và trở thành một sản phẩm nổi tiếng khắp cả nước như đá Ngũ Hành Sơn (TP. Đà Nẵng), mè xửng Huế, mộc Đồng Kỵ (Bắc Ninh), kẹo dừa Bến Tre… Nguyên nhân là do việc xây dựng và dán nhãn mác thương hiệu chưa được đầu tư, chú trọng; sản phẩm làng nghề của Nghệ An lẫn lộn giữa vô vàn sản phẩm khác…
Làng nghề bánh kẹo Đông Hà, Xuân Bắc (xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu) có bề dày trên 70 năm với trên 150 hộ của xóm sống bằng nghề. Trong đó kẹo lạc là chủ yếu. Loại kẹo này khác với cu đơ của Hà Tĩnh bởi vừa có vị ngọt của mía đường, của nha, vừa có vị bùi của lạc và giòn tan mà chỉ “bí quyết” riêng của người dân trong vùng mới có. Người trong làng cũng rất tự hào bởi sản phẩm của làng đã có mặt khắp cả nước và được đông đảo người tiêu dùng đón nhận. Riêng tổng doanh thu 6 tháng đầu năm 2015 của làng nghề hơn 17 tỷ đồng.
Nhưng do không có nhãn hiệu nên bánh kẹo của Đông Hà, Xuân Bắc bị đánh đồng với sản phẩm của các vùng khác. Một số nơi còn làm giả, làm nhái hàng của làng đưa ra những sản phẩm kém chất lượng, gây mất uy tín. Trong hoàn cảnh đó, để bảo vệ “cái tiếng” cho làng nghề, các hộ kinh doanh tự đưa ra một nhãn hiệu riêng và tự an ủi rằng khách quen sẽ nghe “tiếng” để lựa chọn sản phẩm đúng chất lượng. Một số hộ còn ra tận Hà Nội đặt nhãn mác, ghi địa chỉ, số điện thoại cụ thể dưới từng sản phẩm giúp khách hàng có thể kiểm chứng chất lượng. Ông Hoàng Tiến Long, Phó Chủ tịch UBND xã Diễn Vạn cho biết: “Để xây dựng một thương hiệu không dễ vì làng nghề phải phát triển tập trung quy mô lớn nhưng nay ở Diễn Vạn mới chỉ trong quy mô từng gia đình”.
Những năm qua, Nghệ An đã có một số chính sách để các làng nghề xây dựng thương hiệu, đăng ký nhãn mác và sản phẩm. Nhờ đó, một số sản phẩm đã được bảo hộ độc quyền như hương trầm Quỳ Châu, hương Liên Đức (Thanh Chương), hương Thúy Liệu (Thái Hòa), nước mắm Hải Giang 1 (TX. Cửa Lò), nước mắm Cửa Hội, rượu Phúc Mỹ (Hưng Nguyên)… Tuy nhiên, việc xây dựng nhãn hiệu cho các làng nghề vẫn còn rất khó khăn và số làng nghề đã có nhãn hiệu tập thể chỉ mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Một trong những lý do khiến nhiều người dân ở các làng nghề chưa mặn mà với việc xây dựng nhãn hiệu chính là tâm lý "dựa dẫm truyền thống" của chính những người làm nghề. Theo họ, vì đã có truyền thống lâu đời nên sẽ có nhiều người biết đến sản phẩm của làng nghề mình, do đó việc xây dựng thương hiệu là... thừa. Như ở làng nghề nấu rượu Phúc Mỹ, đến thời điểm này đây là làng nghề nấu rượu duy nhất của cả tỉnh xây dựng được hương hiệu. Ông Lê Xuân Cúc, Trưởng làng nghề chia sẻ: “Làng nghề nấu rượu Phúc Mỹ có thâm niên gần 100 năm, vậy nhưng ra thị trường vẫn chỉ là hàng “vô danh” vì không được dán nhãn hiệu. Điều đáng mừng là hiện nay làng nghề đã được hỗ trợ, giúp đỡ xây dựng thương hiệu. Người dân trong làng rất yên tâm khi sản phẩm của mình làm ra không còn lẫn lộn với những sản phẩm khác”.
Một nguyên nhân nữa khiến các làng nghề tỉnh ta không mấy mặn mà với việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là do lối sản xuất thủ công, manh mún, nhỏ lẻ theo hộ gia đình, phần nhiều là kinh doanh theo lối riêng rẽ "mạnh ai nấy làm" nên sự gắn kết giữa các hộ trong làng nghề chưa cao. Trong khi việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại và khâu giới thiệu, quảng bá sản phẩm phải mất nhiều chi phí. Tại làng nghề hương trầm Quỳnh Đôi, ông Hồ Quốc Việt, Trưởng hiệp hội làng nghề cũng băn khoăn khi biết thông tin huyện đang xây dựng nhãn hiệu cho làng nghề: “Tôi nghĩ, nếu đã xây dựng nhãn hiệu tập thể thì phải có một cơ chế phát triển chung cho làng nghề. Chứ xây dựng xong mà vẫn phát triển trong quy mô từng hộ gia đình thì nhãn hiệu khó phát triển. Thậm chí nhiều hộ không muốn sử dung chung nhãn hiệu tập thể vì sợ ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng sản phẩm của gia đình mình...”.
(Còn nữa)
Nhóm phóng viên