Đồng chí Trường Chinh - Người cộng sản mẫu mực, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng

09/02/2017 08:01

(Baonghean) - Lịch sử cách mạng Việt Nam luôn ghi nhớ những công lao to lớn của đồng chí Trường Chinh, một trong những người cộng sản đầu tiên của cách mạng nước ta, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rèn luyện và trưởng thành trong phong trào cách mạng của nhân dân, đồng chí Trường Chinh là người cộng sản kiên cường, bất khuất, tài trí, có cuộc sống mẫu mực, là một trong những người lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng và dân tộc ta.

Đồng chí Trường Chinh là người cộng sự, người học trò gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được xem là nhà lãnh đạo kiệt xuất trong những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Trong ảnh, từ phải sang trái: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Tổng Bí thư Trường Chinh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Việt Bắc.
Đồng chí Trường Chinh là người cộng sự, người học trò gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được xem là nhà lãnh đạo kiệt xuất trong những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Trong ảnh, từ phải sang trái: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Tổng Bí thư Trường Chinh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Việt Bắc.

Đồng chí Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu, sinh ngày 9/2/1907 ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; trong một gia đình trí thức yêu nước ở một vùng quê giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Truyền thống của quê hương và gia đình đã giáo dục, rèn luyện và hun đúc nên lý tưởng cách mạng của đồng chí.

Năm 18 tuổi, đồng chí đã tham gia phong trào yêu nước rồi gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Qua tìm hiểu "Đường Kách mệnh" và các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ một người yêu nước đồng chí đã trở thành một người cộng sản, người học trò xuất sắc, người đồng chí tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 1929, đồng chí tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí Trường Chinh được chỉ định vào Ban Cổ động và Tuyên truyền của Trung ương Đảng. Cuối năm 1930, đồng chí bị đế quốc bắt và kết án 12 năm tù ở nhà lao Hỏa Lò và Sơn La.

Trong 10 năm hoạt động đầu tiên, khi bị bắt, ở tù cũng như lúc hoạt động công khai, đồng chí đã đem hết nghị lực, trí tuệ và nhiệt tình cách mạng tham gia truyền bá chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần bồi dưỡng lý luận và tinh thần cách mạng cho đông đảo cán bộ và nhân dân, trong đó có nhiều người trở thành nhân vật cốt cán của cách mạng.

Sau Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, địch tăng cường khủng bố, hầu hết các Ủy viên Trung ương bị bắt, bị giết, nhiều tổ chức đảng và quần chúng bị phá vỡ. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11/1940) cử ra chỉ còn lại có 3 người.

Với cương vị Quyền Tổng Bí thư ở giai đoạn cực kỳ khó khăn này, đồng chí Trường Chinh đã cử cán bộ đi chắp nối liên lạc, khôi phục tổ chức; cử người sang Quảng Tây liên hệ và đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Phong trào cách mạng dần được khôi phục và củng cố, chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, đồng chí Trường Chinh được bầu chính thức làm Tổng Bí thư của Đảng. Sau Hội nghị, đồng chí rời Pắc Bó về xuôi trực tiếp chỉ đạo phong trào, đề ra sáng kiến lập hệ thống liên hoàn các An toàn khu (ATK).

Từ tháng 8/1942 đến tháng 7/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 14 tháng; đồng chí Hoàng Văn Thụ bị địch bắt và xử bắn; đồng chí Hoàng Quốc Việt được cử đi công tác nước ngoài. Trách nhiệm to lớn của Đảng và cách mạng gần như đặt lên vai một mình Tổng Bí thư Trường Chinh.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh cùng tập thể Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến và giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta. Trong ảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước bàn kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ tại An toàn khu Định Hóa, Thái Nguyên, ngày 6/12/1953.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh cùng tập thể Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến và giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta. Trong ảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước bàn kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ tại An toàn khu Định Hóa, Thái Nguyên, ngày 6/12/1953.

Nhưng với trí tuệ thông minh, sắc sảo, khả năng ứng phó nhanh nhạy, đồng chí cùng Trung ương đã có những quyết định quan trọng đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên những bước nhảy vọt. Nổi bật nhất là việc đồng chí dự báo việc Nhật - Pháp bắn nhau và sớm chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Cùng với “Lời kêu gọi” của Nguyễn Ái Quốc, Chỉ thị đã chỉ rõ thời cơ đang đến và có tác dụng quyết định trong việc động viên hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân trong cao trào chống Nhật cứu nước. Tại Đại hội quốc dân ở Tân Trào, đồng chí Trường Chinh lại được cử phụ trách Ủy ban Tổng khởi nghĩa toàn quốc và 11 giờ đêm ngày 13/8/1945, Ủy ban đã phát lệnh tổng khởi nghĩa. Chỉ trong thời gian ngắn, Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cống hiến nổi bật của đồng chí Trường Chinh trong giai đoạn này chính là cùng với Bác Hồ đề ra đường lối của giai đoạn cách mạng mới ở Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và đồng chí là người trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện, đưa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến thành công.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh cùng tập thể Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến. Quan điểm của Đảng về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ được đồng chí Trường Chinh giải thích và phát triển trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Tác phẩm đã trình bày một cách sáng tỏ các chặng đường của cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin và nâng cao ý chí của mọi người.

Trong thực tiễn, đồng chí không chỉ chú trọng chỉ đạo nhiệm vụ kháng chiến, mà còn hết sức chú ý đến mặt kiến quốc, từng bước thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” chuẩn bị những tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn đó, cùng với thực tiễn sinh động, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với cương vị là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, rồi sau đó là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đồng chí Trường Chinh đã cùng tập thể Bộ Chính trị có những đóng góp không nhỏ vào việc chuẩn bị và đưa ra những quyết sách chiến lược, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn.

Một cống hiến đặc biệt quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh là đã đặt nền móng cho công cuộc đổi mới. Năm 1986, ở cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước, yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân để đề ra chủ trương đổi mới.

Trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI, đồng chí đã nói “Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn”. Đại hội VI đã trở thành Đại hội đổi mới, đánh dấu một mốc son mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam, một bước ngoặt trong tư duy lý luận của Đảng ta. Với trách nhiệm Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí đã tích cực đóng góp sức mình trong việc xây dựng Cương lĩnh và Chiến lược kinh tế - xã hội, chuẩn bị nội dung cho Đại hội lần thứ VII của Đảng.

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Trường Chinh đã thể hiện là một học trò xuất sắc và là một trong những người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí không những là một nhà lãnh đạo chính trị kiệt xuất của Đảng, của Nhà nước ta, mà còn là nhà lý luận, nhà văn hóa, nhà báo lớn của nước nhà.

Đồng chí đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị: "Chống chủ nghĩa cải lương" (1935); "Vấn đề dân cày" (viết chung với đồng chí Võ Nguyên Giáp năm 1937 - 1938); "Chính sách mới của Đảng" (1941); "Kháng chiến nhất định thắng lợi" (1947); "Bàn về cách mạng Việt Nam" (1965); "Nắm vững ba bài học lớn để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược" (1986)...

Thông qua những tác phẩm đó, đồng chí Trường Chinh đã làm rõ hai vấn đề lớn. Một là, lý luận về phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam để góp phần định ra đường lối chiến lược và sách lược của Đảng. Hai là, lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam.

Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa, nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, ở mỗi chặng đường lịch sử, trước mỗi thử thách của cách mạng, đồng chí Trường Chinh đều đánh giá đúng tình hình, nêu lên trách nhiệm cụ thể của văn hóa.

Hàng loạt tác phẩm cùng các bài viết của đồng chí tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm đúng đắn, sắc bén và sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào văn hóa và nghệ thuật Việt Nam.

Để chuẩn bị cho Đại hội VI, ông đã đi thực tế tại nhiều địa phương để nắm bắt tình hình và lắng nghe các đề xuất. Tổng Bí thư Trường Chinh đã đi khảo sát, thực tế gần 20 tỉnh, thành phố từ miền Nam, ra miền Trung và về miền Bắc tìm ra những bài học thành công và thất bại của cơ sở, phát hiện những yêu cầu và sáng tạo trong nhân dân cả nước, để trên cơ sở đó đổi mới cách nghĩ, cách làm trong xây dựng và phát triển đất nước.
Để chuẩn bị cho Đại hội VI, ông đã đi thực tế tại nhiều địa phương để nắm bắt tình hình và lắng nghe các đề xuất. Tổng Bí thư Trường Chinh đã đi khảo sát, thực tế gần 20 tỉnh, thành phố từ miền Nam, ra miền Trung và về miền Bắc tìm ra những bài học thành công và thất bại của cơ sở, phát hiện những yêu cầu và sáng tạo trong nhân dân cả nước, để trên cơ sở đó đổi mới cách nghĩ, cách làm trong xây dựng và phát triển đất nước.

Nổi bật nhất là những đóng góp của đồng chí trong quá trình soạn thảo Đề cương văn hóa Việt Nam; Báo cáo về Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam; Báo cáo đọc tại các Đại hội văn nghệ toàn quốc. Đó là cơ sở lý luận cho việc xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng.

Đồng chí còn kế tục xuất sắc sự nghiệp báo chí của Nguyễn Ái Quốc, là cây bút xuất sắc của báo chí cách mạng ngay từ thời kỳ Mặt trận dân chủ. Đồng chí đã tạo nên một văn phong chính luận cách mạng cho nền báo chí nước nhà.

Những bài báo của đồng chí có tính chiến đấu cao, có sức thuyết phục lớn, ảnh hưởng sâu rộng trong tầng lớp nhân dân. Ngay từ những ngày còn trẻ, đồng chí đã làm chủ bút nhiều tờ báo quan trọng của Đảng và tiếp đó là người chịu trách nhiệm trực tiếp những cơ quan ngôn luận của Đảng như các báo "Cờ Giải phóng", "Sự thật", "Nhân dân", "Tạp chí Tiên phong", "Tạp chí Cộng sản"...

Ở đồng chí, nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà hoạt động văn hóa, nhà báo, nhà thơ (bút danh Sóng Hồng) đã quyện với nhau làm một. Đó là sự thể hiện một cách sinh động lương tâm, trí tuệ và tình cảm cách mạng cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản, nhà lãnh đạo cách mạng của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trải qua 81 tuổi đời (1907 - 1988), với 63 năm hoạt động cách mạng kiên cường và liên tục, đồng chí Trường Chinh đã nêu một tấm gương sáng chói và để lại cho chúng ta những bài học quý, đó là: Suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; không ngừng học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; Ý chí kiên cường cách mạng, tính nguyên tắc và tổ chức kỷ luật, tình cảm chân thành với đồng bào, đồng chí, tính khiêm tốn, giản dị trong cuộc sống hàng ngày, phong cách làm việc khoa học, cẩn thận, cụ thể nhằm đặt hiệu quả thiết thực; Tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân; Trước những bước ngoặt lịch sử, phải đổi mới tư duy, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình, đề ra chủ trương phù hợp, dựa vào sức mạnh của nhân dân để làm nên thắng lợi.

Nguyễn Thị Hồng Vui

(Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)

TIN LIÊN QUAN