Phía sau những mô hình kinh tế “chết yểu” ở miền Tây Nghệ An

Nhóm PV 15/12/2018 07:00

(Baonghean.vn) - Xây dựng các mô hình kinh tế để nâng cao đời sống của đồng bào miền Tây Nghệ An. Tuy nhiên, thực tế cho thấy kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, nhiều mô hình thiếu bền vững, thậm chí “chết yểu”.

Kỳ 1: Những mô hình kinh tế “chết yểu”

Miền Tây Nghệ An tuy tiềm năng, lợi thế lớn, nhưng đến nay không ít bản, làng vẫn lâm vào tình trạng khó khăn, mức thu nhập còn thấp, đời sống người dân chưa thực sự được cải thiện. Trong nhiều nguyên nhân của thực trạng, có lý do các mô hình kinh tế được triển khai không mang lại hiệu quả.

Mô hình “đầu voi đuôi chuột”

Tại bản Yên Sơn (xã Tri Lễ, Quế Phong), cuối năm 2018 chanh leo đang vào chính vụ, vậy nhưng hàng chục ha “cây đổi đời” của bản đã có dấu hiệu vàng úa, còi cọc trên những vườn trồng đầy cỏ. Bà Hà Thị Tâm (SN 1952) cho biết, gia đình bà đã từng trồng 200 gốc chanh leo vào thời điểm năm 2016. Tuy nhiên, vào năm 2017 cây bị dịch bệnh rồi chết mất gần 2/3 vườn, nay chỉ còn 70 gốc nhưng cho năng suất thấp, chỉ có 2 tạ một lần hái, nên gia đình đang định đốn chặt để trồng cây khác.

Ông Vi Văn Quang - Trưởng bản Yên Sơn cho hay, đó là tình trạng chung của toàn bản. Nếu như trước đây gần 70 hộ dân của bản đều canh tác cây chanh leo thì nay chỉ còn khoảng 20 hộ. Diện tích canh tác của 20 hộ này cũng giảm khoảng một nửa. Những vùng bản từng là “thủ phủ” của chanh leo như Na Niếng, D1 hay bản Xan, bản Bò cũng đều chung thực trạng. Thống kê gần đây cho thấy, diện tích trồng chanh leo của Tri Lễ giảm mạnh từ 212 ha năm 2017 xuống còn 153 ha trong tháng 9/2018. Và sau 5 năm phê duyệt quy hoạch 1.500 ha, hiện diện tích chanh leo toàn huyện Quế Phong mới chỉ đạt 201 ha (giảm 82 ha so với năm 2017).

Lý giải về sự suy giảm này, ông Nguyễn Bá Hiền - Trưởng ban Phát triển nông thôn miền núi huyện Quế Phong cho biết, trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng diện tích chanh leo giảm nhanh có 2 lý do chính. Thứ nhất, chanh leo là loài cây khó tính, dễ bị nhiễm các loại virus gây bệnh nhưng thuốc đặc trị chưa phát huy tốt công dụng. Kiểm nghiệm hiệu quả sau phun cho thấy thuốc khi chỉ dừng lại ở mức độ giảm thiểu chứ chưa triệt tiêu hoàn toàn mầm bệnh cho cây trồng.

Thứ hai, bà con lại mang tâm lý e ngại khi bỏ ra một khoản tiền lớn nên chỉ đầu tư cầm chừng; hoặc nửa vời khiến cho cây trồng ngày càng xuống dốc. Về phía “nhà doanh nghiệp”, lãnh đạo Công ty CP Chanh leo Nafoods cho biết, vì nhiều lý do mà gần như 100% người dân không tuân thủ quy trình sản xuất mà công ty đã khuyến cáo, dẫn đến hiện tượng lây nhiễm chéo từ các vườn bị bệnh khác sang cây con mới trồng. Cùng đó, thời gian qua chủ yếu diện tích chanh leo phát triển tại Quế Phong là của các chương trình chính sách của huyện, chứ người dân chưa tự đầu tư để trồng và phát triển. Do đó, chưa phát huy được ý thức, trách nhiệm trong việc quản lý, chăm sóc, bảo vệ tài sản của mình.

Miền Tây Nghệ An được xác định là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, gắn kết với vùng đồng bằng ven biển, vùng đô thị. Toàn vùng có 11 huyện, thị xã với diện tích tự nhiên 13.709 km2 (chiếm 83,15% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh). Có tổng dân số trên 1.131 nghìn người (chiếm 36,93% dân số của tỉnh), gồm 7 dân tộc (Thái, Thổ, Khơ mú, Mông, Đan Lai, Ơ đu và Kinh) chung sống, mỗi dân tộc có nét bản sắc văn hóa riêng biệt, tạo nên sự đa dạng, phong phú về đời sống, là tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Miền Tây Nghệ An còn là vùng giàu tiềm năng phát triển kinh tế rừng, du lịch sinh thái, công nghiệp khoáng sản, xi măng và thủy điện; có trên 1.685.061 ha đất lâm nghiệp, 789.787 ha rừng tự nhiên, 601.845 ha rừng trồng, 32.000 ha cây công nghiệp dài ngày. Đặc biệt, có Vườn Quốc gia Pù Mát là khu vực dự sinh quyển thứ 6 của Việt Nam với trên 2.500 loài thực vật, 130 loài vật quý hiếm, 295 loài chim, 54 loài lưỡng cư và bò sát, 83 loài cá và 39 loại dơi. Ở đây, có nhiều hệ thống sông, suối bắt nguồn từ dãy Trường Sơn với có độ dốc lớn, rất thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy, công nghiệp thủy điện và du lịch sinh thái.

Trái ngược với sự thất bại, lụi dần trong trồng chè, chanh leo ở các địa phương trên, thì ở xã Mai Sơn, huyện Tương Dương, bằng những bước đi bài bản, đánh giá kỹ tiềm năng, lợi thế cũng như thách thức, cẩn trọng thực hiện đã cho kết quả trái ngược. Chỉ mới khoảng 5 năm trước, những đổi thay hiện tại trong đời sống của nhân dân xã Nhôn Mai, huyện Tương Dương dường như là một giấc mơ xa vời. Khác với những nghèo nàn, lạc hậu, cái đói vây bủa như trước đây, hiện ở Nhôn Mai các mô hình kinh tế đã bắt đầu xuất hiện nhiều, điển hình là mô hình phát triển cây chanh leo. Bà con người Mông ở các bản Thằm Thẩm, Huồi Cọ đã có nhu nhập cao từ loại cây này, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, việc học hành của con em cũng được quan tâm và chăm lo hơn.

Ông Lương Xuân Hiệp – Chủ tịch UBND xã Nhôn Mai chia sẻ: “Từ một xã “4 không” (không đường, không điện, không chợ và không sóng điện thoại - PV), nay Nhôn Mai đã có được “3 không”, chỉ thiếu mỗi chợ, nhưng việc giao thương cũng đã thuận tiện hơn nhiều nhờ giao thông phát triển. Tất cả là nhờ khi xác định được đúng đối tượng đầu tư là chanh leo, chính quyền và người dân, doanh nghiệp cùng vào cuộc ngay từ những khâu đầu tiên cho đến khi sản phẩm của bà con được tiêu thụ.

Cây chè cũng là một trong những cây trồng chủ lực được xây dựng mô hình trồng triển khai cho người dân các địa phương miền Tây. Song ở nhiều nơi cây chè bị giảm dần theo thời gian. Năm 2014, xã Thanh Sơn (Thanh Chương) triển khai mô hình trồng chè cho người dân mục tiêu đến năm 2020 đạt 320 ha. Năm 2014 trồng được 70,4 ha; năm 2015 trồng được 27,67 ha; năm 2016 trồng được 4,45 ha. Nhưng từ năm 2017 đến nay không phát triển được thêm, diện tích không những “dẫm chân tại chỗ” mà còn có dấu hiệu sụt giảm. Thậm chí, có không ít hộ ở các bản Kim Hạnh, Đại Sơn đã nhổ bỏ hoặc trồng xen với keo, sắn nên chè không phát triển.

Vấn đề này, ý kiến nhiều chuyên gia, nhà quản lý cho rằng, tư duy ỷ lại, xem việc triển khai mô hình là làm cho dự án chứ không phải làm cho mình của bà con khiến cho việc duy trì mô hình sau khi dự án rút nguồn kinh phí hỗ trợ không hiệu quả. Có khi, đã ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp đứng ra bao tiêu sản phẩm rồi nhưng người dân lại phá vỡ hợp đồng khi không tuân thủ đúng quy định đề ra. Một trong những nguyên nhân nữa là do khi thực hiện mô hình điểm, nông dân được hỗ trợ phần lớn về giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và kỹ thuật nuôi trồng, chăm sóc nên hiệu quả kinh tế đạt được cao hơn hẳn các giống cây trồng, vật nuôi truyền thống. Tuy nhiên, khi triển khai đại trà, nhiều hộ vẫn giữ thói quen sản xuất theo phương thức truyền thống, trong khi mô hình mới lại đòi hỏi quy trình sản xuất nghiêm ngặt dẫn tới năng suất, chất lượng không cao so với phương thức canh tác cũ, nông dân không còn mặn mà tham gia.

Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ, chính sách dân tộc được phân chia thành 13 nhóm chính sách và liên quan đến 17 sở và 11 ban, ngành triển khai chỉ đạo thực hiện. Hiện nay, cả nước có 96 chính sách được thể hiện qua 152 văn bản đang có hiệu lực chỉ đạo thực hiện. Trong đó, các chính sách dân tộc còn có hiệu lực trên địa bàn tỉnh Nghệ An là 70 chính sách của Trung ương, 12 chính sách của tỉnh (tính đến 30/6/2018) và liên quan trực tiếp đến 14 sở, ban, ngành chỉ đạo thực hiện.

Khó nhân rộng

Bên cạnh những mô hình “đầu voi đuôi chuột”, một số mô hình dù đã đem lại thu nhập ban đầu cho người dân nhưng cũng không thể nhân rộng như dự kiến ban đầu. Ví như mô hình trồng chanh leo tại 3 xã Mỹ Lý, Mường Lống, Bắc Lý của huyện biên giới Kỳ Sơn. Để triển khai mô hình này, UBND huyện Kỳ Sơn hỗ trợ cho 14 hộ tham gia với diện tích 0,8 ha. Qua 1 mùa thu hoạch cho thấy sản lượng khá, tổng thu khoảng 32 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, theo cán bộ UBND huyện Kỳ Sơn thì “qua khảo sát, đánh giá về điều kiện địa hình, thổ nhưỡng và nhiều yếu tố khác thì mô hình trồng chanh leo này khó nhân rộng để tạo ra vùng sản xuất hàng hóa như dự định. Vì thế, UBND huyện quyết định sẽ không nhân rộng mô hình này, mà chỉ dừng lại trồng phục vụ tiêu thụ nội địa”.

Hoặc như mô hình hỗ trợ giống chăn nuôi, cụ thể là giống bò lai sind ở xã Tam Quang, huyện Tương Dương. Theo ông Lữ Văn Biên ở bản Sơn Hà, xã Tam Quang, một trong những hộ được hỗ trợ bò lai sind theo Chương trình 30a cho biết: Năm 2015 sau khi vay mượn để nộp thêm số tiền hơn 4,5 triệu đồng, gia đình ông được nhận về 1 con bò lai sind nhưng không hiểu sao càng nuôi càng còi cọc và rồi phải xẻ bán thịt, lấy tiền mua dê giống để nuôi. Đây là thực tế của không ít hộ nghèo sau khi nhận bò lai sind về nuôi trên địa bàn.

Lý giải nguyên do, cán bộ phụ trách nông nghiệp xã Tam Quang cho rằng, bò lai sind rất phù hợp với những hộ khá, hộ có điều kiện về chuồng trại, thức ăn, bởi thực tế trên địa bàn những hộ chăn nuôi nhiều vẫn lấy giống bò lai sind để phát triển. Tuy nhiên, với những hộ nghèo, thiếu điều kiện để làm chuồng nuôi nhốt và bà con duy trì tập quán chăn thả rông, ngoài ra cũng không có điều kiện trồng cỏ sữa. Vì vậy, bò gặp gì ăn nấy nên càng ngày càng còi cọc. Chưa kể, giống bò lai sind tuy có thể trạng to, nhưng sức đề kháng yếu, nếu không chăm sóc tốt dễ mắc bệnh. Cho nên, nhìn cơ bản mô hình nuôi bò lai sind không thể nhân rộng ở các huyện miền Tây, mà chỉ phù hợp với một số hộ có điều kiện đầu tư lớn, quy củ.

Ông Trương Minh Châu - Trưởng phòng Quản lý KT & KHCN (Sở NN&PTNT) cho biết, trong 8 năm qua, toàn tỉnh đã xây dựng được 5.369 mô hình khuyến nông. Tuy nhiên, tổng số mô hình thành công chỉ đạt hơn 3.700 (chiếm 69%). Tổng kinh phí xây dựng các mô hình trên ước tính vào khoảng 560,375 tỷ đồng. Vậy 31% tổng mô hình còn lại không mang lại hiệu quả như mong muốn hoặc thậm chí “chết yểu” cục bộ đã gây lãng phí gần 174 tỷ đồng tiền đầu tư và cơ man công sức chăm sóc, trồng tỉa của người dân, lãng phí lớn về nhân lực, vật lực, thời gian và tiềm năng.

Nhóm PV