Thượng tôn pháp luật quốc tế vì không gian sinh tồn và phát triển ở Biển Đông

Nguyễn Hồng Điệp 08/08/2019 16:16

Ông Nguyễn Mạnh Đông - Vụ trưởng Vụ Biển thuộc Ủy ban Biên giới quốc gia (Bộ Ngoại giao), trả lời phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam xung quanh vấn đề Biển Đông.

Chiến sỹ đảo Cô Lin, huyện đảo Trường Sa, ngày đêm nâng cao cảnh giác, canh giữ biển trời của Tổ quốc. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Chiến sỹ đảo Cô Lin, huyện đảo Trường Sa, ngày đêm nâng cao cảnh giác, canh giữ biển trời của Tổ quốc. Ảnh: Trần Việt/TTXVN

Trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Đông - Vụ trưởng Vụ Biển thuộc Ủy ban Biên giới quốc gia (Bộ Ngoại giao) nhấn mạnh, các quốc gia, bất kể trình độ phát triển, quy mô và ảnh hưởng đều cần phải cùng nỗ lực, trên tinh thần thiện chí, xây dựng, thượng tôn pháp luật, thông qua các hành động thiết thực, cụ thể, duy trì môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy xu thế chung này vì lợi ích của chính các quốc gia cũng như của cả cộng đồng quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra một cách sâu rộng, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng.

VÌ LỢI ÍCH CHUNG CỦA CÁC NƯỚC VÀ CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ

- Thưa ông, ông có thể đánh giá tầm quan trọng của việc giữ gìn môi trường hòa bình, an ninh, ổn định, thúc đẩy hợp tác hữu nghị ở khu vực Biển Đông?

Ông Nguyễn Mạnh Đông: Đầu tiên chúng ta có thể khẳng định là hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác phát triển là khát vọng của tất cả các dân tộc trên thế giới và xu thế phát triển chung của loài người, diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trên khắp các khu vực và châu lục.

Các quốc gia, bất kể trình độ phát triển, quy mô và ảnh hưởng đều cần phải cùng nỗ lực, trên tinh thần thiện chí, xây dựng, thượng tôn pháp luật, thông qua các hành động thiết thực, cụ thể, duy trì môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy xu thế chung này vì lợi ích của chính các quốc gia cũng như của cả cộng đồng quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra một cách sâu rộng, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng.

Thứ hai, thực tế cho thấy rõ hòa bình, ổn định, an ninh và hợp tác chính là một trong những nền tảng quan trọng tạo nên sự phát triển năng động nhiều mặt của khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng trong những thập kỷ qua.

Thứ ba, Biển Đông là không gian sinh tồn và phát triển của các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam; là không gian hợp tác phát triển giữa các nước trong khu vực với các đối tác trong và ngoài khu vực và là nơi có các tuyến đường hàng không quan trọng và cũng là nơi có các tuyến đường hàng hải huyết mạch của thế giới tính cả về giá trị hàng hóa được vận chuyển cũng như số lượng tàu thuyền qua lại, nhiều nền kinh tế lớn trong và ngoài khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Liên minh châu Âu... phụ thuộc nhiều vào tuyến hàng hải qua Biển Đông.

Xuất phát từ tầm quan trọng, vị trí chiến lược của Biển Đông đối với các quốc gia trong và ngoài khu vực, việc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển, quyền tự do hàng hải, hàng không được xác lập theo đúng các quy định của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) là cơ sở bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh và hợp tác ở khu vực Biển Đông.

Chính vì lẽ đó, trong những năm qua, các nước ven Biển Đông, các quốc gia trong và ngoài khu vực đã hết sức lo lắng trước các hành động đơn phương xâm phạm các quyền và lợi ích biển hợp pháp của các nước ven biển như cản trở các hoạt động hợp pháp trên biển, thăm dò, khảo sát, xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, việc đẩy mạnh cải tạo, bồi đắp, quân sự hóa trên các cấu trúc được xây dựng trái phép…

Các hành động này đã dẫn đến việc xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể gây tác động tiêu cực đến hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác và phát triển trên phạm vi khu vực và toàn cầu.

Cộng đồng quốc tế, khu vực đã nhiều lần lên tiếng bày tỏ quan ngại và bất bình trước các hành động đơn phương vi phạm nêu trên, kêu gọi tôn trọng tính thượng tôn pháp luật, hành xử theo đúng các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế, UNCLOS vì lợi ích chung của các nước và cộng đồng quốc tế.

UNCLOS, HÌNH THÀNH MỘT TRẬT TỰ PHÁP LÝ QUỐC TẾ

- Vai trò, ý nghĩa của UNCLOS trong giải quyết tranh chấp giữa các nước trên biển được nhấn mạnh như thế nào, thưa ông?

Ông Nguyễn Mạnh Đông: Năm nay, các quốc gia thành viên UNCLOS kỷ niệm 25 năm ngày Công ước có hiệu lực.

Phát biểu nhân dịp này tại Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS được tổ chức tại trụ sở Liên hợp quốc, Tổng Thư ký Liên hợp quốc đã nhấn mạnh lại ý nghĩa của UNCLOS với tính chất là “Hiến pháp của biển và đại dương,” khuôn khổ toàn diện cho việc khai thác, sử dụng biển hòa bình, hợp tác và bền vững.

Hướng dẫn cho tàu thuyền vào đảo Đá Đông, Trường Sa, Khánh Hòa. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Hướng dẫn cho tàu thuyền vào đảo Đá Đông, Trường Sa, Khánh Hòa. Ảnh: Trần Việt/TTXVN

Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh thêm một số điểm sau: UNCLOS ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc hình thành một trật tự pháp lý quốc tế điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến biển và đại dương.

Nói một cách khác, UNCLOS vừa là cơ sở pháp lý quan trọng và toàn diện nhất để các quốc gia xác định, thực thi các quyền và nghĩa vụ của mình trên các vùng biển, đồng thời, là cơ sở để các quốc gia giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước trên thực tế.

Cho đến nay đại đa số các quốc gia thành viên Liên hợp quốc (168/192) là thành viên Công ước và theo đó, có nghĩa vụ tuân thủ và thực thi một cách có trách nhiệm và thiện chí các quy định có liên quan của UNCLOS.

Tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS là một thực tế khách quan trong quá trình triển khai, áp dụng Công ước.

Tuy nhiên, các quốc gia có trách nhiệm phải giải quyết các tranh chấp liên quan một cách hòa bình bằng các biện pháp đã được nêu tại Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc và Điều 279 UNCLOS. Ở đây cũng cần phân biệt giữa các tranh chấp thực sự và các vi phạm đơn phương và UNCLOS chính là cơ sở để xác định đâu là tranh chấp, đâu là vi phạm.

Tàu Trung Quốc sử dụng vòi rồng phun nước với áp lực mạnh làm hỏng hóc thiết bị, vỡ cửa kính của tàu kiểm ngư Việt Nam năm 2014. Ảnh: Zing.vn
Tàu Trung Quốc sử dụng vòi rồng phun nước với áp lực mạnh làm hỏng hóc thiết bị, vỡ cửa kính của tàu kiểm ngư Việt Nam năm 2014. Ảnh: Zing.vn

Một trong những đặc trưng cơ bản nhất, mang tính tiến bộ của các quy định giải quyết tranh chấp trong UNCLOS đó chính là quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc đưa đến các quyết định ràng buộc.

Điều này có nghĩa là, trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS có thể được giải quyết bằng bên thứ ba và quyết định của bên thứ ba mang tính ràng buộc các bên có liên quan.

Trong những năm qua một số nước trong khu vực và ngoài khu vực đã sử dụng thủ tục này để giải quyết thành công các tranh chấp cụ thể của mình liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều khoản có liên quan của UNCLOS.

Tóm lại, UNCLOS là nền tảng pháp lý quốc tế cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc áp dụng và giải thích Công ước, là cơ sở để các quốc gia bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, giải quyết tốt các tranh chấp có liên quan qua đó góp phần thúc đẩy thêm quan hệ giữa các nước.

Các văn kiện quốc tế, khu vực đều khẳng định vai trò quan trọng của UNCLOS trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế liên quan đến biển.

CƯƠNG QUYẾT BẢO VỆ VÙNG BIỂN CỦA VIỆT NAM

- Các biện pháp hòa bình, theo quy định của luật pháp quốc tế đã được Việt Nam vận dụng như thế nào trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam, thưa ông?

Ông Nguyễn Mạnh Đông: Chủ trương nhất quán của Việt Nam là mọi tranh chấp quốc tế, trong đó có tranh chấp ở Biển Đông, cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, như được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS.

Điều này đã được khẳng định rõ ràng trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn UNCLOS ngày 23/6/1994 cũng như tại Luật Biển Việt Nam năm 2012 cũng như nhiều văn kiện, văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác.

Trên cơ sở đó, cho đến nay chúng ta đã giải quyết dứt điểm vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc (năm 2000), phân định biển với Thái Lan (năm 1997), phân định thềm lục địa với Indonesia (năm 2003), ký Thỏa thuận khai thác chung dầu khí với Malaysia (năm 1992) và Hiệp định vùng nước lịch sử với Campuchia (năm 1988).

Đây là những thành tựu hết sức quan trọng, tạo cơ sở pháp lý quốc tế, hình thành “phên giậu” cho chúng ta trên các vùng biển có liên quan. Đồng thời, chúng ta đang tiếp tục thúc đẩy việc đàm phán giải quyết vấn đề phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia…

Chúng ta luôn tôn trọng các vùng biển của các nước láng giềng được xác định phù hợp với UNCLOS, có biện pháp tuyên truyền, giáo dục ngư dân ta, những người hoạt động trên biển tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS, không có hành động vi phạm vùng biển nước ngoài. Song chúng ta cũng cương quyết bảo vệ vùng biển của Việt Nam.

Đối với các vi phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của ta được xác định theo đúng các quy định có liên quan của UNCLOS, chúng ta kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình như giao thiệp ngoại giao để chỉ ra các vi phạm dưới các quy định có liên quan của UNCLOS, gửi công hàm phản đối, cho lưu hành công hàm tại Liên hợp quốc; đồng thời cũng khẳng định là Việt Nam bảo lưu các quyền sử dụng các biện pháp hòa bình phù hợp luật pháp quốc tế để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình theo UNCLOS.

TÔN TRỌNG VÀ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH CỦA UNCLOS

- Ông có thể cho biết những nỗ lực của Việt Nam trong việc thực thi, thúc đẩy UNCLOS, trong hợp tác quốc tế về biển?

Ông Nguyễn Mạnh Đông: Việt Nam là 1 trong 107 quốc gia ký UNCLOS tại Montego Bay, Jamaica ngay sau khi văn kiện được mở ký và là một trong những quốc gia phê chuẩn sớm, trước khi Công ước có hiệu lực vào năm 1994.

Cùng với đó, Việt Nam cũng đã gia nhập các Hiệp định thực thi Công ước này bao gồm Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của Công ước và Hiệp định năm 1995 về đàn cá lưỡng cư và di cư xa.

Trong những năm qua Việt Nam luôn tôn trọng và thực thi đầy đủ các nghĩa vụ theo Công ước thông qua việc nội luật hóa các quy định của Công ước và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển; sử dụng các quy định của Công ước để làm cơ sở giải quyết vấn đề phân định và thúc đẩy hợp tác biển với các nước láng giềng có chung biển.

Năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Báo cáo quốc gia xác định ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý và Báo cáo chung Việt Nam-Malaysia về ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lý ở khu vực phía Nam Biển Đông.

Ở khía cạnh song phương, chúng ta đã sớm triển khai hợp tác nghiên cứu khoa học biển với Philippines từ năm 1996, 2000, 2005 và 2007 và trên cơ sở thành công này, Việt Nam và Philippines đã nhất trí thể chế hóa cơ chế hợp tác biển giữa hai nước, mở rộng hợp tác từ nghiên cứu khoa học biển sang các lĩnh vực mới như bảo vệ môi trường biển, tìm kiếm cứu nạn, ứng phó sự cố tràn dầu…

Với Trung Quốc, trong khuôn khổ hợp tác về các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, Việt Nam và Trung Quốc đã triển khai thành công dự án Nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocen khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang; triển khai hợp tác thả giống và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ.

Hiện, đang thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, hải sự và thiết lập đường dây nóng xử lý các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, hợp tác trong việc triển khai một số dự án mới về bảo vệ môi trường trong Vịnh Bắc Bộ.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng hình thành cơ chế tuần tra chung trên biển với Thái Lan (năm 1998), Campuchia (năm 2002); Trung Quốc (năm 2005) nhằm duy trì trật tự ở vùng biển liên quan, tạo điều kiện cho việc tăng cường hợp tác hơn nữa giữa các lực lượng có liên quan của 2 nước, qua đó góp phần thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị.

Trong khuôn khổ ASEAN, ta cũng chủ động, tích cực tham gia các sáng kiến, lĩnh vực hợp tác ở Biển Đông như SOM (Quan chức Cao cấp) ASEAN về giao thông vận tải (STOM); Diễn đàn ASEAN về Tìm kiếm cứu nạn (ATSF); Diễn đàn biển của ASEAN (AMF); Nhóm làm việc về vận tải biển (MTWG); Nhóm làm việc của ASEAN về khoa học, kỹ thuật biển (SCMSAT); Nhóm làm việc ASEAN về nghề cá (ASWGF), Chương trình hợp tác khu vực về quản lý môi trường biển khu vực Đông Á (SEAFDEC)…

Đồng thời, trong khuôn khổ thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC) và đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử (COC), ta đã có nhiều sáng kiến, chủ động đóng góp vì lợi ích chung của các bên cũng như hợp tác biển ASEAN-Trung Quốc.

Việt Nam cũng tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế được thành lập theo Công ước.

Việt Nam tham gia đầy đủ và có đóng góp tích tại Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước được tổ chức hàng năm tại Đại hội đồng Liên hợp quốc, các hội nghị của Cơ quan quyền lực đáy đại dương; ủng hộ tăng cường hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lụa địa và nâng cao vai trò của Tòa án Luật Biển quốc tế; tham gia xây dựng văn kiện pháp lý quốc tế về bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học biển tại các vùng biển quốc tế...

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia xây dựng nhiều cơ chế và văn kiện pháp lý quốc tế và khu vực liên quan đến biển như Công ước quốc tế về Tổ chức Vệ tinh hàng hải (INMARSAT), Hệ thống an toàn và cứu nạn hàng hải toàn cầu (GMDSS), tham gia Công ước Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) và các công ước khác của IMO….

Đây chính là những bằng chứng sinh động thể hiện thiện chí, sự tích cực, quyết tâm và cam kết thực tế của Chính phủ Việt Nam đối với việc tôn trọng và thực thi các quy định của UNCLOS, đồng thời thể hiện nỗ lực và chủ trương nhất quán của Việt Nam trong việc hợp tác giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên biển bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, nhằm thúc đẩy sự hợp tác với các quốc gia, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông.

- Trân trọng cảm ơn ông!

Nguyễn Hồng Điệp