Làm thế nào dự đoán sớm cơn đột quỵ?
Không thể dự đoán một người ngày mai, ngày kia có đột quỵ không, nhưng có thể đánh giá sớm yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, tiểu đường.
Phó Giáo sư Nguyễn Huy Thắng - Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, Trưởng Khoa Bệnh lý mạch máu não Bệnh viện Nhân Dân 115 (TP. HCM), cho biết, nhiều bệnh nhân thắc mắc làm sao chẩn đoán sớm đột quỵ.
"Đột quỵ là bệnh đột ngột, trước khi phát bệnh thì sức khỏe bình thường, nên không thể nói chính xác ngày nào một người đột quỵ", bác sĩ Thắng chia sẻ. Tuy nhiên, ở từng người, bác sĩ có thể đánh giá nguy cơ bị đột quỵ. Bất kỳ ai cũng có thể đối mặt với đột quỵ, đặc biệt là các bệnh nhân trong nhóm nguy cơ. Mỗi người cần biết yếu tố nguy cơ của mình là gì, đặt mục tiêu cần đạt.
"Có những yếu tố nguy cơ buộc phải chấp nhận như tuổi tác, càng lớn tuổi thì nguy cơ đột quỵ càng cao", bác sĩ Thắng nói. Với những nguyên nhân có thể thay đổi được, thầy thuốc và bệnh nhân cần phối hợp tốt.
Nhóm yếu tố nguy cơ hàng đầu gây đột quỵ não là tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu. Một số yếu tố khác là béo phì, hút thuốc lá, người bệnh tim mạch, nghiện rượu, bia, từng có cơn thiếu máu não thoáng qua...
Theo bác sĩ Thắng, điều nguy hiểm là những thủ phạm chính gây đột quỵ như tăng huyết áp, đái tháo đường đòi hỏi phải dùng thuốc kiểm soát lâu dài, hầu như phải điều trị suốt đời. Trong khi đó, biểu hiện bệnh lại rất mơ hồ, đa số bệnh nhân cảm thấy khỏe mạnh nên lơ là điều trị. Chẳng hạn, nhiều người bệnh tăng huyết áp tâm thu trên 200 mmHg hoặc đường huyết cao trên 400 mg/dL vẫn cảm giác bình thường.
Hiện nay có các loại thuốc giúp giảm nguy cơ, dự phòng đột quỵ ở những bệnh nhân này. Ví dụ bệnh nhân rung nhĩ tuân thủ điều trị, dùng thuốc kháng đông với sự theo dõi của bác sĩ có thể giảm 70% nguy cơ đột quỵ trong tương lai. Bệnh nhân kiểm soát huyết áp, tiểu đường, cholesterol trong máu cũng giúp giảm 65% biến cố đột quỵ.
Nhiều bệnh nhân sau khi điều trị ổn thì ngưng đi khám, ngưng uống thuốc, hoặc tự mua thuốc theo toa cũ. "Có bệnh nhân thấy đơn thuốc của bác sĩ kê nhiều loại nhưng chỉ chọn mua một hoặc hai loại, gây ảnh hưởng hiệu quả điều trị", bác sĩ Thắng nói.
"Việc phòng bệnh tại Việt Nam đang ở mức báo động. Nếu không phòng ngừa tốt sẽ dẫn đến quá tải trong điều trị đột quỵ cấp", bác sĩ Thắng phân tích.
Bác sĩ Thắng kể, khi đi báo cáo ở nước ngoài, nhiều chuyên gia rất ngạc nhiên với con số hơn 1.000 ca điều trị đột quỵ cấp trong một năm của Bệnh viện Nhân dân 115. Đây là con số kỷ lục, hiếm thấy ở trung tâm điều trị đột quỵ nào trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam tiếp cận nhiều kỹ thuật mới nhất trong chẩn đoán, điều trị đột quỵ của thế giới. Nhiều trung tâm nước ta đã sử dụng hình ảnh học tiên tiến để chẩn đoán đột quỵ, điều trị tái tưới máu bằng kỹ thuật hiện đại như tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch, lấy huyết khối bằng dụng cụ... Điểm hạn chế trong điều trị đột quỵ ở Việt Nam là cửa sổ điều trị ngắn, ít bệnh nhân đến kịp trong thời gian vàng.
Phần mềm RAPID ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong chẩn đoán, điều trị đột quỵ, được áp dụng tại một số bệnh viện ở Việt Nam. |
Bác sĩ Trần Thị Mai Uyên -Trưởng Khoa Nội thần kinh - Đột quỵ, Bệnh viện Gia An 115, cho biết, cấp cứu sớm trong "thời gian vàng" 3-4,5 giờ từ khi khởi phát triệu chứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng, giúp giảm tỷ lệ tử vong và tăng cơ hội hồi phục.
"Nếu người nhà không biết rõ thời điểm khởi phát triệu chứng đột quỵ hoặc đã qua thời gian vàng, vẫn cần liên hệ cấp cứu tại bệnh viện có chức năng điều trị đột quỵ", bác sĩ Uyên chia sẻ. Gần đây với sự trợ giúp của phần mềm RAPID ứng dụng trí tuệ nhân tạo, thời gian cứu não có thể lên đến 24 giờ.
Cần nhận biết các dấu hiệu của đột quỵ để cấp cứu sớm. Bệnh nhân đột quỵ có thể xuất hiện đột ngột triệu chứng tê hoặc yếu vùng mặt, tay hoặc chân. Đặc biệt là khi triệu chứng xảy ra một bên cơ thể, méo miệng, đột ngột không nói được hoặc khó nói, nhìn mờ, đau đầu, chóng mặt, mất thăng bằng...
Theo thống kê của thế giới, đột quỵ là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 3 sau bệnh tim mạch và ung thư. Riêng ở Việt Nam, đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Nhiều người may mắn sống sót nhưng đối diện nguy cơ tàn phế do các biến chứng như rối loạn nhận thức, mất khả năng vận động, khó khăn trong việc nói hoặc nuốt, rối loạn tâm lý... Các thống kê thấy khoảng 70% bệnh nhân đột quỵ một lần không thể quay lại cuộc sống bình thường. Do vậy điều trị phòng ngừa đột quỵ mới là điều quan trọng nhất.
Bệnh nhân đã bị đột quỵ, may mắn sống được hoặc phục hồi tốt, cũng cần phải sử dụng thuốc để phòng ngừa biến cố đột quỵ tiếp theo.