Trần Quang Quý và nỗi quê 'không nói bằng chiếc lưỡi của người khác'
(Baonghean.vn) - Nhà thơ Trần Quang Quý sinh ngày 2/1/1955 tại huyện Xuân Lộc, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993. Ông đã qua đời vào lúc 11 giờ sáng 10/9 tại nhà riêng, do bị mắc bệnh ung thư dạ dày, hưởng thọ 67 tuổi. Tưởng niệm một nhà thơ dành trọn đời cho sự nghiệp thi ca, Báo Nghệ An đăng tải bài viết của nhà phê bình văn học Hoàng Thuỵ Anh về "đường bay khác biệt" của cố nhà thơ Trần Quang Quý - đường bay hướng về hồn quê bằng sự thăng hoa của chuỗi/hệ thống động từ độc lập. Những động từ này góp phần bộc lộ tình yêu làng quê riêng khác của thơ ông.
Cố nhà thơ Trần Quang Quý. |
Mỗi đường bay của Trần Quang Quý luôn có sự dịch chuyển, đa dạng và phong phú về điểm nhìn, hình tượng. Chiều kích không gian và thời gian thơ ông được nới rộng, nhưng thắt buộc, quấn quyện lòng người trong nỗi niềm quê nhà, nỗi niềm thế sự. Nơi nào ông đến, đều hát lên lời tình tự rất đỗi chân tình của một trái tim riết nóng. Tình cảm ấy lặn vào máu thịt, tiềm thức của thi sĩ và lan tỏa từng ký tự.
Một vốc đất thôi cũng đủ nhen lên niềm khát bỏng, cũng đủ thấy mạch máu mình hòa cùng mạch máu quê hương. Bưng bát cơm, nhà thơ thấy mình như bưng cả khay quê hương lên mà hít hà, nhâm nhi thưởng thức từng tí một: Bưng bát cơm mà thơm quê hương. Mùi thơm của đất, của lúa dậy lên từ thẳm sâu tình người.
Miền Trung gian khổ, đất hạn chân chim, bão lũ vần vũ là thế nhưng cái vị biệt khác ấy lại làm nhức nhối lòng bao kẻ xa quê. Trần Quang Quý không sinh ra từ vùng đất khắc nghiệt này nhưng khát đến độ muốn hòa tan hơi thở, dòng máu của mình vào miền Trung: Tôi tan lẫn miền Trung một phía cuộc đời. Ở đây, động từ tan lẫn đã chuyển từ quá trình biến đổi sang quá trình hòa phối, đồng điệu cùng chung nhịp đập. Ông còn uống, cạn chén với miền Trung để được thỏa cơn say với những con người một miếng đói nghèo bạc tóc còn thơm. Một cơn dốc lòng, trút bầu tâm sự chân thành và nồng nhiệt.
Những tác phẩm thơ của cố nhà thơ Trần Quang Quý. |
Vẻ đẹp miên man, trùng điệp của thiên nhiên và sự mộc mạc, chân chất của người Tây Bắc làm say lòng biết bao khách lãng du. Trần Quang Quý cũng thế, mê Tây Bắc đến độ, người về mà hồn vẫn còn đeo bám: Đã mang ta găm lại núi đồi. Động từ găm ở đây quá hay. Tây Bắc tác động mạnh đến thi sĩ, khiến thi sĩ tự nguyện găm hồn mình lại. Đó là sự tác động từ hai phía, chứ không phải là sự gượng ép, bắt buộc.
Hay như nét duyên từ thuở Mai Châu mùa em thơm nếp xôi cũng xao xuyến, bâng khuâng lòng thi nhân: Buộc ta vào lúng liếng Mai Châu. Động từ buộc, động từ tác động đã biến đổi tâm hồn thi sĩ, cột thi sĩ vào nhớ nhung trước cái tình của con người nơi đây.
Huế, vùng đất nổi tiếng mộng, thơ cũng khiến nhà thơ bịn rịn: Rớt xuống miền ta lênh đênh. Động từ chỉ vận động di chuyển rớt xuống cũng thế, không hề cưỡng chế mà rất tự nhiên. Từng giọt mơ xứ Huế rớt xuống cõi tâm thi sĩ. Còn thi sĩ như đang thả lòng mình đón nhận hết từng giọt tình mà cô gái xứ Huế mang đến. Cả Huế và thi sĩ đều cùng tiến hành một hoạt động: hòa nhịp tình.
Hoặc một chiều ở Vàm Cống, Long Xuyên, An Giang, từng vết nhớ như ghìm nhà thơ trong lưới ký ức của hơn hai mươi năm. Ghìm là động từ gây khiến, nhưng ở đây đâu chỉ Vàm Cống tác động đến nhà thơ, đưa đẩy nhà thơ vào vòng luyến nhớ mà chính nhà thơ cũng đang tự nén, tự ghìm những cảm xúc đang dâng trào.
Cố nhà thơ Trần Quang Quý và vợ - nhà văn Y Mùi. |
Như thế, nỗi nhớ ấy tự thân đã hiện hữu và rất sống động. Ở bài thơ Sơn Tây, nhà thơ viết: các nàng giặt tôi, kì cọ tôi bằng chiều quê cổ điển/ bằng cổ tích Ba Vì... Động từ giặt, kì cọ kết hợp với phương tiện chiều quê cổ điển, cổ tích Ba Vì là sáng tạo hay, thú vị. Ngoài cái tình mà các cô gái Sơn Tây tác động đến còn gợi biết bao nỗi niềm về quê cũ. Đấy là một sự tác động kép, xâu chuỗi thăng hoa tình đất và người. Trần Quang Quý còn muốn nhốt Cà Mau trong ngực trái nóng hôi hổi. Hành động nhốt thật đẹp, ấn tượng. Trái tim nhỏ nhưng chứa đựng tình yêu thật lớn lao, khao khát thật cuồng nhiệt.
Có thể nói, mỗi vùng miền nhà thơ đi qua đều được tái hiện với những vẻ đẹp riêng, đầy sóng tình và cũng đầy tính nhân văn. Những hành động như vồ vập, như nuốt chửng, như muốn độc tôn riêng mình cho thấy sự khát cháy yêu thương đang cựa quẫy hết sức mãnh liệt. Tình yêu cuộc sống ấy chính là nỗi niềm, khát vọng được giao hòa thực sự của thi sĩ.
Thơ Trần Quang Quý, tình yêu làng quê rất nổi bật. Tình cảm làng quê hiện diện qua nhiều hình ảnh: hạt lúa chín vàng, mùi rơm thơm, luống cày, bùn đất, tiếng dế, chiếc xe bò xộc xệch, vết chân trâu, bếp trấu, bồ thóc, củ khoai lùi,... Nó gợi lên vẻ đẹp dân dã, bình dị của biết bao miền quê yên bình, thân thuộc. Đọc những câu thơ ấy, chúng ta đều cảm nhận như đang được sống, được buông thả lòng mình với nơi chôn nhau cắt rốn.
Trần Quang Quý đẩy nỗi nhớ, nỗi khát ấy đến tận cùng như ông đã từng tan hòa với miền Trung yêu thương. Tự đáy lòng mình, tình yêu ấy đã có sẵn, nảy nở. Vì đã uống no đời thôn dã nên nhà thơ mới có thể thấy sự khăng khít, gắn bó vô hình giữa mình và làng quê: Có sợi khói thắt tôi không nút buộc. Hình ảnh nhà thơ tự thắt mình bằng sợi khói lam chiều rất đẹp. Một đối tượng hữu hình nhưng lại rất có chiều sâu. Bởi, đó là bản lề của nỗi nhớ quê thổn thức từ bao đời nay. Sự neo thắt đẩy nỗi nhớ quê trở nên gần gụi hơn, bình dị hơn. Chỉ khi đặt mình ở vị trí ấy, nhà thơ mới có thể: chạm vào cổ tích làng tôi.Thắt một nỗi nhớ vô hình trong một đối tượng hữu hình, nhà thơ đã tạo một cuộc hòa nhập cao độ. Và từ cuộc hòa nhập đó, thì việc nhà thơ thấy được cái tình, nỗi niềm vắt, giắt, lót trong nỗi quê là điều tất yếu.
Đâu chỉ có thế, phải thả mình sống kiệt cùng gian khổ với làng, nhà thơ mới có sự chia sẻ sâu sắc: Mồ hôi làng trằn trọc chảy sang tôi. Hành động chảy sang hết sức tự nhiên, minh chứng sự nhập cuộc cao độ giữa nhà thơ với làng. Một tình yêu chân thành khởi từ máu thịt, mồ hôi của nhà thơ. Vì thế, làng như sợi rễ bám chắc vào trái tim nhà thơ, cứ khỏa bao nỗi thương nhớ khôn nguôi.
Những sắc màu đa thức - tuyển tập được nhiều bạn đọc mến mộ của cố nhà thơ Trần Quang Quý. |
Hình ảnh làng quê trong thơ Trần Quang Quý còn gắn với những con người chân lấm tay bùn, những người mẹ, người vợ tần tảo, bươn chải. Tình yêu làng nhập cuộc với tình yêu bà. Nhà thơ cảm nhận mùi quê hương, mùi thơm rơm rạ tỏa hương từ câu chuyện của bà. Không chỉ thế, nhà thơ còn cảm nhận được ấm áp chân trời ấu thơ mọc lên sau những cơn ho của bà. Đâu chỉ tiếng ho mọc kí ức quê mà chiếc gậy của bà cũng thế, chiếc gậy khua dọc nhân mùi quê hương nồng hậu từ nhà này sang nhà khác.
Với mẹ, nhà thơ có cách nhìn khác. Một đời mẹ chênh chao gieo mùa, gieo hy vọng vấn víu mãi đất đai và lời ru: “Hãy cựa mình nào/ Mẹ ta gieo xuống/ Mẹ gieo vào đất một đời hy vọng/ Một đời đi mãi mà không ngoài ruộng/ Một đời ru mãi vẫn trong cánh cò” (Hát gọi hạt giống). Rồi những mùa cốm thơm đêm trăng em cũng buộc hồn thi sĩ - em đã buộc tôi từng nút thắt ký ức. Gắn hình ảnh làng quê với người quê, thơ Trần Quang Quý càng gần gũi, đong đầy tình cảm. Vị ngọt từ tấm lòng đã tỏa sáng trên vị ngọt của những ký tự.
Cuộc sống hiện đại quăng quật con người trong guồng máy thị trường đầy biến động, đầy những vấn nạn nhức nhối, đắng lòng. Nhưng truyền thống, văn hóa làng quê không bao giờ mất đi mà luôn đau đáu, da diết. Và đối với người con xa quê, nỗi nhớ ấy thêm phần róng riết. Kỷ niệm đẹp, thắm thiết nơi làng quê trở thành mầm ân tình xuyên suốt, nâng đỡ tâm hồn nhà thơ Trần Quang Quý. Những cánh đồng bát ngát mùa vàng, bát ngát mồ hôi, bát ngát bùn non đóng vào tim, thơm mãi vòm thơ của thi nhân.
Giữa cuộc đời đầy rẫy những chiếc lưỡi đi ra từ cái miệng dị tật, những gương mặt di cư, man trá mặt nạ,... việc con người luôn thèm được trở về, khát tiếng vọng quê nhà là điều hiển nhiên. Do đó, hình ảnh làng quê không hề mất đi mà càng cháy bỏng, bám chặt, là chốn yên bình cho những cuộc trở về của tâm hồn. Hơn nữa, cuộc sống thành thị lắm nghiệt ngã, nơi lòng thiện bôi trơn trên những mũi giày, lạnh lùng, dửng dưng, lặng thinh qua phố, thì việc nhà thơ hồi tưởng về làng quê là một cách giải thoát hợp lý nhất. Những thanh âm này tuy buồn nhưng không phải là thanh âm chán chường, bế tắc mà là những thanh âm đẹp. Thanh âm buồn vực dậy những gì thanh khiết của tâm hồn.
Ở chốn ồn ã, náo nhiệt, Trần Quang Quý nghe tiếng chim mà lòng thổn thức, quặn thắt: Khát tiếng chim trong kỷ bê tông/ và lại chính tiếng chim mỗi ban mai đã làm tôi bật thức cô đơn! (Tiếng của loài chim). Tâm thức cô đơn này là một cảm xúc còn lại và cần thiết để người nghệ sĩ chống lại sự bào mòn của lương tri, của tình người đang dần dần băng hoại khi mọi thứ đều ngả giá bằng đồng tiền. Một sự bật thức đầy chủ động, tự tin, xuất phát từ tình yêu quê nhiệt nồng và ray rứt. Vì thế, bao nỗi vất vả của làng, của người nông dân, của mẹ cha,... thuở xưa vẫn như dòng máu liên nhịp sôi sục cõi lòng nhà thơ: Chạy dọc huyết quản tôi tiếng thở nặng nhọc của đường làng.
Phải chăng khi đi qua, đi xa nỗi đời lấm lem, vất vả, chúng ta mới thấy nhớ nhung diệu vợi, trân quý vô cùng? Những âm thanh nặng trĩu mồ hôi, nước mắt, những hình ảnh thân quen, dân dã... lần lượt dần sàng giấc mơ, run lên trong ngực nhà thơ. Nỗi thèm khát quê đôi khi được nhen lên từ hương vị mộc mạc của những trái sim. Nhà thơ đâu mua sim mà đang mua tuổi thơ, mua hồn làng đó thôi. Chính cái gốc rễ chân tình, mộc mạc, dân dã ấy của làng quê đã vin ông đứng dậy giữa bão bùng thế cuộc: Thói đời dễ ngoảnh mặt đi/ Ta về thúng mủng đựng khi đói lòng (Người quê). Cuộc sống đói nghèo nhưng tâm hồn ấm áp, chứa chan tình.
Tác giả Hoàng Thuỵ Anh và cố nhà thơ Trần Quang Quý. |
Như vậy, chúng ta thấy những từ ngữ đào sâu tận cùng bản ngã, tận cùng yêu thương, nhung nhớ dành cho quê thường là các động từ độc lập, chỉ hoạt động và trạng thái của chủ thể. Các động từ đan dệt thành những lớp sóng ngầm khát bỏng yêu thương, tha thiết và mặn mà. Nhờ đó, tình yêu quê, nỗi quê đâu chỉ đơn thuần là vùng kí ức tĩnh của cảm xúc mà nó luôn thổn thức, réo rắt, quẫy cựa, giúp chúng ta nhận ra, cái tình quê của thi sĩ không bao giờ bị mất đi, không ngủ yên mà luôn trong tâm thế vận động, trào dâng, cháy bỏng và tươi ròng. Khi nhà thơ gọi tên là trói, là buộc, là thắt... thì tất cả đều bắt đầu từ sự tự nguyện, tận hiến hết sức trìu mến. Mặt khác, tần suất động từ dày đặc như chà đi xát lại khiến nỗi quê dâng cao thêm. Loang chảy sang không gian khác, đối mặt với đời sống mới, đời sống đô thị với những mặt nạ, những chiếc lưỡi hình thớt, tình yêu làng quê vẫn thăm thẳm, rực cháy cõi lòng.
Thơ của Trần Quang Quý là kết quả của quá trình không ngừng nhen lửa, chưng cất men nồng, nghiệm chứng cuộc đời. Với một lớp lang động từ độc lập, ông đã tạo nên mạch nguồn, tâm thức làng quê vừa mạnh mẽ vừa biệt lạ. Có thể nói, ở thể tài nằm lòng, quen thuộc này, thơ ông cũng không nói bằng chiếc lưỡi của người khác.