Nuôi trồng thủy sản ở Nghệ An đối mặt nhiều khó khăn
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng mạnh mẽ, thời tiết diễn biến bất thường, nghề nuôi trồng thủy sản đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức...
Ứng dụng công nghệ vào sản xuất
Anh Hồ Nghĩa Quý ở xóm Đồng Tâm, xã Quỳnh Bảng (Quỳnh Lưu) gắn bó với nghề nuôi tôm từ hơn 20 năm nay. Với đặc điểm khí hậu của Nghệ An, nuôi tôm vụ chính thường gặp thời tiết nắng nóng gay gắt. Mặc dù anh đã áp dụng các giải pháp để chống nóng như điều tiết mực nước trong ao đầm cao lên để nước không bị nóng, tăng cường quạt nước, đồng thời, sử dụng chế phẩm sinh học để phân hủy các chất hữu cơ và hạn chế tảo phát triển, việc nuôi tôm vụ chính vẫn không hiệu quả.
Đầu năm 2023, gia đình anh đầu tư 150 triệu đồng xây dựng khu nhà lưới rộng 250m2 để nuôi tôm. Trong khu nhà được che phủ bởi tấm lưới lam, ánh nắng không chiếu trực tiếp vào mặt nước, Bên cạnh đó, anh xây dựng nhiều bể xi măng và đầu tư lắp đặt hệ thống nuôi tôm áp dụng công nghệ cao, nuôi tôm nhiều giai đoạn.
“Đầu tư xây dựng nhà lưới, không những nuôi được tôm thuận lợi vào mùa Hè nắng nóng mà còn phù hợp với mùa Đông nhiệt độ xuống thấp, vì vậy, mỗi năm có thể nuôi 3 - 4 lứa tôm, cho năng suất cao”, anh Quý chia sẻ.
Không riêng hộ anh Quý ở xã Quỳnh Bảng mà nhiều chủ đầm tôm khác trên địa bàn các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu và thị xã Hoàng Mai… cũng đầu tư nuôi tôm trong nhà, áp dụng công nghệ cao, nhằm giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh, tăng vụ và nuôi thả mật độ cao… mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với nuôi tôm ngoài ao trời...
Theo báo cáo của Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư, đến tháng 9/2024, trên địa bàn toàn tỉnh đã thả nuôi 21.000 ha thủy sản, đạt 96,49% kế hoạch. Trong đó, nuôi ngọt hơn 19,4 nghìn ha; nuôi mặn lợ 1.805 ha, riêng tôm là 1.576 ha. Sản lượng thu hoạch ước đạt 36.479 tấn (đạt 52,11% kế hoạch và bằng 103,96% so với cùng kỳ năm 2023). Nuôi ngọt thu hoạch được 30.162 tấn, nuôi mặn, lợ 6.317 tấn (tôm 4.439 tấn). Sản xuất, ương dưỡng tôm giống 1,539 tỷ con, cá giống các loại đạt 518 triệu con.
Đáng chú ý, nuôi tôm thương phẩm, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng ngày càng được đầu tư theo hướng thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất. Công tác ứng dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng công nghệ cao vào nuôi trồng, ngày càng quan tâm và đạt được những kết quả tốt.
Các hộ nuôi đã tiếp cận ứng dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số vào nuôi trồng ngày càng quan tâm và có những bước phát triển tốt, cụ thể như: Công nghệ sinh học, nuôi nhiều giai đoạn, nuôi tuần hoàn... Bà con kết hợp với đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng cả vùng nuôi và từng cơ sở nuôi (xây dựng hệ thống nhà kín, lồng nổi có mái che nhằm ổn định nhiệt, hạn chế sự lây lan mầm bệnh và những tác động khác gây ảnh hưởng đến sinh trưởng tôm nuôi,...).
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có 81 cơ sở áp dụng mô hình nuôi tôm nhiều giai đoạn, với diện tích 136,75 ha (trong đó, có 21 cơ sở nuôi tôm trong lồng nổi với 35,4 ha) giúp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Nhiều cơ sở lớn đã lắp thiết bị camera, cập nhật dữ liệu trên hệ thống máy tính để giám sát quá trình nuôi tôm…
Trong các hình thức nuôi trồng thủy sản nước ngọt thì hình thức nuôi lồng trên sông, hồ, đập thủy lợi, thủy điện được người dân quan tâm đầu tư phát triển mạnh từ công nghệ đến đối tượng nuôi. Với ưu điểm tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên, nguồn nước sạch hạn chế được dịch bệnh, đem lại hiệu quả cao cho người nuôi. Số lượng lồng nuôi toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 đạt 2.200 lồng, tăng 27 lồng so với năm 2023.
Các địa phương có nghề nuôi cá lồng phát triển mạnh như: Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Tân Kỳ, Con Cuông... Các lồng nuôi đều đầu tư lắp đặt theo công nghệ cải tiến (khung lồng bằng nhựa PE, ống sắt mạ kẽm và lưới), kích cỡ từ 50 m3 trở lên.
Còn nhiều khó khăn
Tuy nhiên, nuôi trồng thủy sản của Nghệ An vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức. Ngay từ đầu vụ nuôi đã có hiện tượng tôm chết sớm, không rõ nguyên nhân ở nhiều giai đoạn, ngày nuôi đã ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư của người dân. Giá vật tư đầu vào tăng; sử dụng nhiều thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học để phòng trị bệnh đã làm tăng chi phí sản xuất. Các đầm tôm chủ yếu nuôi ngắn ngày, thu hoạch kích thước nhỏ, giá bán không cao. Một số ao nuôi phát triển chậm dẫn đến việc kéo dài thời gian nuôi.
Một số hộ nuôi chưa tuân thủ nghiêm túc quy trình xử lý, phòng trừ dịch bệnh. Công tác khử trùng, tiêu diệt động vật trung gian chưa được chú trọng, không ngắt nghỉ mùa vụ nuôi theo lịch mùa vụ của ngành thông báo; Hạ tầng cơ sở bị xuống cấp, một số vùng nuôi hệ thống kênh cấp đã bị bồi lắng và chưa có kênh cấp, thoát nước riêng biệt.
Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh bước đầu đã hình thành việc liên kết sản xuất nhưng đang ở các bước riêng lẻ, chưa hình thành liên kết theo chuỗi giá trị; chưa có các doanh nghiệp, HTX đứng ra làm cầu nối của toàn chuỗi giá trị.
Việc áp dụng các chính sách hỗ trợ xây dựng chuỗi còn nhiều lúng túng, vướng mắc trong quá trình thực hiện nên chưa có các thành phần kinh tế tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Đối tượng nuôi nước ngọt chủ yếu đang nuôi các loài cá truyền thống, các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao mới phát triển ở phạm vi nhỏ...
Để hoàn thành các mục tiêu kế hoạch năm 2024, các địa phương và các cơ quan chức năng cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn Luật Thủy sản năm 2017 và các luật, văn bản liên quan đến nuôi trồng thủy sản; Triển khai thực hiện tốt công tác quan trắc, cảnh báo môi trường, thông báo kịp thời đến người nuôi chủ động ứng phó với các điều kiện bất lợi của môi trường, nhằm giảm tối đa thiệt hại trong nuôi tôm; Triển khai thực hiện tốt chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh áp dụng công nghệ mới theo Nghị quyết 18/2021/NQ-HĐND ngày 9/12/2021; Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng giống và thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định; Tăng cường công tác triển khai hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân đăng ký cấp giấy xác nhận nuôi trồng thủy sản lồng bè, đối tượng nuôi thủy sản chủ lực.
Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh thủy sản; công tác kiểm dịch tôm giống vận chuyển ra khỏi địa bàn tỉnh và kiểm soát tôm giống vận chuyển nội tỉnh và đặc biệt là thực hiện tốt công tác xúc tiến thương mại, nghiên cứu, dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản; Quan tâm tổ chức giới thiệu các sản phẩm thủy sản tại các thị trường trong và ngoài tỉnh...