Giá lúa gạo hôm nay 19/6: Gạo xuất khẩu tăng nhẹ
Ngày 19/6, thị trường lúa gạo trong nước tiếp tục ghi nhận diễn biến ổn định, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã đảo chiều tăng nhẹ sau một vài phiên đi ngang.
Giá lúa gạo trong nước
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo xuất khẩu hôm nay tăng từ 1 - 2 USD/tấn. Gạo 5% tấm đạt mức 387 USD/tấn, tăng 1 USD; gạo 25% tấm tăng lên 362 USD/tấn và gạo 100% tấm ở mức 319 USD/tấn, tăng 2 USD/tấn.
Tại thị trường nội địa khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, giá lúa tươi nhìn chung ổn định. Một số địa phương như Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang ghi nhận hoạt động mua bán lúa Hè Thu có cải thiện nhẹ, giá giữ vững hoặc nhích tăng.
Cụ thể, tại An Giang, lúa OM 5451 (tươi) có giá 5.800 - 6.000 đồng/kg; OM 18 ở mức 6.000 - 6.100 đồng/kg; Đài Thơm 8 dao động từ 6.300 - 6.500 đồng/kg; IR 50404 từ 5.300 - 5.500 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giữ mức cao nhất từ 6.650 - 6.750 đồng/kg.
Giá gạo nguyên liệu và thành phẩm tại các địa phương cũng ổn định. Gạo nguyên liệu CL 555 dao động từ 8.250 - 8.350 đồng/kg; IR 504 từ 8.050 - 8.150 đồng/kg; OM 380 từ 7.850 - 7.900 đồng/kg. Trong khi đó, OM 18 đạt mức cao 10.200 - 10.400 đồng/kg. Gạo thành phẩm IR 504 hiện ở mức 9.500 - 9.700 đồng/kg.
Các vùng như Sa Đéc, Lấp Vò (Đồng Tháp) và An Cư (Tiền Giang) ghi nhận nguồn hàng về ít, giá các loại gạo cơ bản giữ mức ổn định, nhu cầu mua có cải thiện nhưng chưa mạnh. Một số chủng loại như OM 380 và 50404 khan hàng nhẹ, giá biến động không đáng kể.
Đối với mặt hàng phụ phẩm, giá tấm OM 5451 tăng thêm 100 đồng, hiện đạt 7.400 đồng/kg. Giá cám dao động từ 9.000 - 10.000 đồng/kg.
Tại các chợ bán lẻ, giá gạo tiêu dùng không thay đổi so với hôm qua. Gạo Nàng Nhen vẫn có giá cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo thường từ 13.000 - 14.000 đồng/kg; Jasmine ở mức 16.000 - 18.000 đồng/kg; Hương Lài và gạo Nhật đều giữ mức 22.000 đồng/kg; một số loại gạo thơm khác dao động từ 20.000 - 22.000 đồng/kg.

Giá gạo xuất khẩu
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay (18/6) nhìn chung ổn định, chỉ có một số điều chỉnh nhẹ. Giá gạo 5% tấm tăng nhẹ 1 USD/tấn, lên mức 387 USD/tấn. Trong khi đó, gạo 25% tấm và 100% tấm lần lượt giảm 1 USD/tấn, xuống 361 USD/tấn và 317 USD/tấn.
Ở chiều ngược lại, giá gạo 5% tấm của Thái Lan tiếp tục giảm, hiện còn 396 USD/tấn, trong khi giá cùng loại của Ấn Độ và Pakistan giữ nguyên ở 381 USD/tấn và 392 USD/tấn.
Giữa bối cảnh giá gạo nội địa tại Nhật Bản tăng cao và nguồn cung suy giảm, hai quốc gia xuất khẩu gạo lớn là Việt Nam và Thái Lan đang nhìn thấy cơ hội lớn từ giống gạo Japonica - loại gạo đặc trưng cho khẩu vị và văn hóa ẩm thực Nhật Bản.
Việt Nam vừa ghi dấu bước tiến quan trọng với việc xuất khẩu 500 tấn gạo Japonica phát thải thấp sang Nhật Bản. Đây là giống gạo thân thiện môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về an toàn và bền vững. Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam Bùi Bá Bổng nhận định, Nhật Bản đang thiếu hụt nguồn cung và Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng trở thành đối tác chiến lược trong việc cung cấp gạo chất lượng cao.
Trong khi đó, Thái Lan cũng đang chuyển dần từ giống Indica sang Japonica để gia tăng hiện diện trong phân khúc cao cấp tại Nhật. Dù xuất khẩu gạo sang Nhật đã tăng hơn 1,3 lần trong 10 năm qua, Thái Lan vẫn phải đối mặt với thách thức về thuế nhập khẩu và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nước trong khu vực.
Hiện tại, Nhật Bản áp mức thuế cao lên tới 341 yên/kg đối với lượng gạo vượt hạn ngạch nhập khẩu, nhưng giá gạo nhập từ Đông Nam Á vẫn thấp hơn nhiều so với gạo nội địa. Điều này giúp các doanh nghiệp Nhật tiếp tục mua mạnh, dù cũng tiềm ẩn nguy cơ vấp phải phản ứng từ nông dân trong nước.