Dưới chân những dãy núi trùng điệp, mảnh đất Mường Miếng – nay là xã Châu Hội, Châu Nga, huyện Quỳ Châu – vẫn âm thầm lưu giữ những dấu ấn lịch sử và văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc nơi đây.
Tác giả: Tiến Đông - Kỹ thuật: Diệp Thanh Ngày xuất bản: 24/6/2025
Dưới chân những dãy núi trùng điệp, mảnh đất Mường Miếng – nay là các xã Châu Hội, Châu Nga, huyện Quỳ Châu vẫn âm thầm lưu giữ những dấu ấn lịch sử và văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc nơi đây.
Trầm tích bản mường
Từ thành phố Vinh, vượt hơn 145 cây số về phía Tây Bắc theo Quốc lộ 48, chúng tôi ngược lên huyện Quỳ Châu, một mảnh đất ẩn chứa nhiều mảng trầm tích lịch sử – văn hóa, nơi lớp lớp thời gian không phủ bụi lãng quên mà hóa thành chứng tích sống động, nối kết giữa quá khứ, hiện tại và gợi mở tương lai. Đây được xem là vùng đất Thái cổ. Mỗi nếp nhà sàn, mỗi điệu nhuôn, lăm, khắp, mỗi hoa văn trên áo, váy thổ cẩm của người Thái đều là một câu chuyện truyền đời.
Ở đó, dấu chân xưa của người Việt cổ vẫn còn hằn in nơi hang Thẩm Ồm, rồi đến những thăng trầm của vùng đất trong cuộc di dân mở đất về phía Tây Nghệ An. Mỗi đợt sóng người, mỗi cuộc biến thiên của rừng núi, đều lắng lại thành một cõi tích tụ không hề trộn lẫn.
Dừng chân nơi mảnh đất Châu Hội, Châu Nga dưới chân núi Bù Đằng, trong mênh mông nếp núi, dưới ánh chiều tà, chúng tôi như chạm tay vào ký ức. Để rồi lần bước theo những dấu chân của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm tháng chống giặc Minh xâm lược ở thế kỷ XV, hay của các nghĩa sĩ Cần Vương kiên cường nơi rừng thiêng nước độc những năm tháng chống Pháp ở cuối thế kỷ XIX. Nơi đây, giữa núi rừng hoang vu, dường như vang vọng mãi âm hưởng của lòng trung nghĩa, của khát vọng giữ nước.
Ngọn núi Bù Đằng nằm giữa xã Châu Hội và Châu Nga. Từ đỉnh Bù Đằng phóng tầm mắt ra xa có thể thấy rõ những cánh đồng ẩn hiện và dòng sông Hiếu uốn lượn. Ảnh: Tiến Đông
Châu Hội và Châu Nga gần như nằm trọn trong vùng lõm của 2 khối núi Pù Hoạt và Pù Khạng, xưa kia được gọi là Mường Miếng, là nơi có đông đồng bào dân tộc Thái sinh sống. Từ buổi bình minh của lịch sử cho đến nay, vùng đất này đã trải qua nhiều thay đổi về địa vực cư trú của các cộng đồng dân cư. Đặc biệt là xuất hiện nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống như: Thổ, Mông, Khơ Mú…
Theo Địa chí Quỳ Châu, tuy có nguồn gốc khác nhau, nhưng mỗi dân tộc đều tự hào về sự đóng góp của mình vào việc cải tạo thiên nhiên, xây dựng cuộc sống, tạo nên sự chuyển biến về mọi mặt trên mảnh đất Quỳ Châu. Trên đất Quỳ Châu ngày ấy đã xuất hiện những trung tâm kinh tế, văn hóa và xã hội sầm uất, như vùng Tạ Chum, Mường Chai, Kẻ Bọn… có quan hệ rộng rãi không chỉ với các mường trong khu vực, mà cả với bên kia biên giới (nước Ai Lao) hay với vùng miền núi Thanh Hóa và Tây Bắc Việt Nam. Bộ máy quản lý các phủ, châu, hương thôn không ngừng được củng cố; quân đội thường trực và dân binh được thành lập nhằm mục đích ngăn chặn sự tấn công của các lực lượng bên ngoài, bảo vệ sự bình yên của làng bản.
Những cọn nước gắn liền với đời sống văn hóa người Thái ở huyện Quỳ Châu. Ảnh: Đình Tuyên
Mối quan hệ cộng đồng dân tộc, tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ngày càng thắm thiết. Mối quan hệ bền vững và tốt đẹp ấy đã tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc cùng tồn tại và phát triển, tạo dựng nên bản sắc văn hóa, vừa mang đặc điểm chung của dân tộc Việt Nam, vừa mang đặc trưng riêng của từng dân tộc ở huyện Quỳ Châu.
Tuy nhiên, huyện Quỳ Châu ngày nay với các đơn vị hành chính có nhiều thay đổi và thành phần tộc người cũng không còn như trước. Cùng với quá trình di cư và tái định cư, cơ cấu dân cư đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Nhưng chính trong sự hòa quyện ấy, những giá trị cốt lõi của văn hóa Thái cổ vẫn được gìn giữ.
Hào khí vùng cao
Chúng tôi lần theo lời hướng dẫn của cán bộ UBND xã Châu Hội, tìm đến bản Đơn để gặp ông Lang Văn Ngọ – nguyên Bí thư Đảng ủy xã Châu Hội. Ông Ngọ là hậu duệ của Đốc binh Lang Văn Thiết, một trong những người con anh dũng của đất Mường Miếng.
Ảnh: Tiến Đông
“
Vùng đất dưới chân núi Bù Đằng từng chứng kiến trận đánh vang danh sử sách, được Nguyễn Trãi khắc hoạ bằng 2 câu thơ nổi tiếng trong Bình Ngô đại cáo “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ, tro bay”.
Ông Lang Văn Ngọ - nguyên Bí thư Đảng ủy xã Châu Hội
Ông Ngọ kể, từ xa xưa, vùng đất Châu Hội, cùng với Châu Nga đã trở thành nơi có vị trí chiến lược quan trọng. Từ vùng đất này có thể dễ dàng di chuyển ra Bắc, sang đất Như Xuân (Thanh Hóa) và di chuyển lên phía Tây sang đất Ai Lao (nước bạn Lào ngày nay). Đặc biệt, vùng đất dưới chân núi Bù Đằng (hay còn gọi là Bồ Lạp, Bồ Cứ, Bồ Đằng, Bù Đớn..), từng chứng kiến trận đánh vang danh sử sách, đã được Nguyễn Trãi khắc hoạ bằng 2 câu thơ nổi tiếng trong Bình Ngô đại cáo “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ, tro bay”.
Sử cũ chép rằng, vào năm 1424, Lê Lợi quyết định tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của tướng quân Nguyễn Chích (một số tư liệu ghi là Lê Chích). Bởi vì, theo Nguyễn Chích “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông… chiếm giữ cho được Nghệ An để làm đất đứng chân, rồi dựa vào sức người và của cải đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”.
Tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn theo đường “thượng đạo” tiến vào vùng núi Nghệ An, mục tiêu hướng tới đầu tiên là đánh hạ thành Trà Lân. Nhưng khi qua núi Bù Đằng, nghĩa quân bị 5.000 quân của Cầm Bành, Căm Lạn đánh chặn đường phía trước; các tướng của giặc Minh là Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Thái Phúc truy đuổi ở phía sau. Lợi dụng đêm tối, Lê Lợi cho nghĩa quân mai phục trong rừng, bất ngờ tấn công tiêu diệt hơn 2.000 tên giặc, trong đó có tên Đô ty Trần Trung, thu nhiều khí giới và hơn 100 con ngựa.
Ngày nay, ngọn núi Bù Đằng là ranh giới tự nhiên phân cách giữa xã Châu Hội và xã Châu Nga, nhưng dưới ngọn núi này, những câu chuyện về trận thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn cách nay 600 năm vẫn luôn được nhắc nhớ.
Chúng tôi nán lại với ông Ngọ khá lâu. Ông say sưa kể về những câu chuyện lịch sử, văn hóa địa phương, về việc ngày còn nhỏ theo chân chúng bạn lên núi Bù Đằng còn nhặt được những tẩu thuốc bằng gốm, được cho là dấu tích còn sót lại từ thời nghĩa quân Lam Sơn. Ông nói: “Mường Miếng từng là trung tâm hội tụ của người Thái cổ, từ những dòng họ lớn như Lang, Lương… Chính tại đây, cụ Thiết từng lập căn cứ kháng chiến, nơi cất giấu vũ khí, nuôi quân, hưởng ứng phong trào Cần Vương".
Phóng viên Báo Nghệ An trao đổi với anh Lang Văn Cường - Phó Chủ tịch UBND xã Châu Hội bên cạnh khu mộ cụ Lang Văn Thiết. Ảnh: Nhật Lân
Cụ Lang Văn Thiết, là con trai của võ quan Lang Văn Thu dưới triều Vua Tự Đức (nhà Nguyễn). Từ nhỏ ông đã được cha huấn luyện võ nghệ, ham luyện cung, múa kiếm, lớn lên thân hình cường tráng lại giao lưu rộng nên có uy tín lớn trong cộng đồng. Sau đó, ông được cậu ruột là Tri phủ Quỳ Châu giao cho chức đốc binh, do đó mà ông còn được gọi là Đốc Thiết. Hưởng ứng phong trào Cần Vương, ông đã lãnh đạo nhân dân Châu Hội, Châu Nga đứng lên đánh Pháp. Ông còn phối hợp với nghĩa quân Cầm Bá Thước ở Thanh Hóa, xây dựng khu vực này thành một căn cứ địa quan trọng.
Sau nhiều năm tham gia kháng chiến, Lang Văn Thiết đã bị địch bắt sau một trận đánh ở làng Thanh Nga, xã Châu Nga. Cụ bị thực dân Pháp chặt đầu bêu trên gốc cây táo ở gần nhà, nay là bản Khun, xã Châu Hội. Ngày nay, cụ Lang Văn Thiết có 2 mộ phần ở 2 nơi. Một tại bản Khun (Châu Hội), ngay gốc cây táo, và một ở bìa đồng Tổng Huống, bản Mưn (xã Châu Nga). Khu mộ của cụ đã được công nhận là di tích lịch sử năm 1998.
Sau buổi trò chuyện với ông Lang Văn Ngọ, chúng tôi được anh Lang Văn Cường – Phó Chủ tịch UBND xã Châu Hội nhiệt tình dẫn men theo con đường đá núi đến chân Bù Đằng. Đứng ở lưng chừng núi, trời Quỳ Châu tháng Năm trong vắt, từ đây có thể thấy cả một vùng đồi xanh rì rào gió thổi, trải dài từ xã Châu Hội sang xã Châu Nga như một tấm thảm khổng lồ. Những cánh đồng trù phú, ruộng nước xen kẽ ruộng màu, uốn lượn theo dòng sông Hiếu. Bù Đằng không chỉ là địa danh, mà là nơi linh khí hội tụ.
Một ngôi mộ của cụ Đốc Thiết ở cánh đồng Tổng Huống, cạnh con suối Mun, xã Châu Nga. Ảnh: Tiến Đông
Anh Cường còn dẫn chúng tôi đến các khu mộ của cụ Lang Văn Thiết, nơi đã được công nhận là di tích. Vậy nhưng, khi đến khu mộ nơi cánh đồng Tổng Huống, dù giữa mênh mông cánh đồng lúa nước, bên con suối Mun lặng lẽ chảy về sông Hiếu, chúng tôi vẫn gợn chút trăn trở, khi khu mộ cô quạnh đến nhói lòng.
Rời Bù Đằng khi trời dần tắt nắng, màu khói lam đã buông mờ mịt núi. Chia tay chúng tôi với cái bắt tay thật chặt, vị Phó Chủ tịch UBND xã Châu Hội Lang Văn Cường bịn rịn nói: “Ngày nay, mỗi mùa hội đến, ở các xã Châu Hội, Châu Nga, ngay dưới chân Bù Đằng, tiếng chiêng tiếng, trống vẫn vang vọng như gọi về ký ức xưa. Thanh niên trai, gái hát giao duyên, người già ngồi kể chuyện về cụ Thiết, về những người đã khuất. Trong tiếng cười, tiếng khèn, đâu đó vẫn phảng phất một niềm tự hào không nói thành lời. Tự hào lắm”.
Tới đây, khi tổ chức sắp xếp lại địa giới hành chính, xã Châu Hội và xã Châu Nga vốn cùng chung cội nguồn từ Mường Miếng xưa sẽ được hợp nhất thành một đơn vị hành chính mới.
Điều này mở ra hy vọng cho việc xây dựng nơi đây thành một vùng đất văn hóa đặc sắc, mang dấu ấn “địa linh nhân kiệt”....