80 năm ngành Văn hóa Nghệ An: Tỏa sáng truyền thống, viết tiếp tương lai
80 năm đồng hành cùng đất nước, ngành Văn hóa Nghệ An đã kế thừa và phát huy di sản văn hóa truyền thống, làm nên tấm hộ chiếu “mềm” đưa người Nghệ giao lưu hội nhập thế giới. Đó là câu chuyện của khát vọng và sự vươn lên trong từng thời kỳ, là sự khẳng định trí tuệ và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ làm văn hóa bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống đương đại.
NHỮNG NGÀY ĐẦU THÀNH LẬP
Xác định thông tin tuyên truyền, văn hóa tư tưởng là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Bộ Thông tin tuyên truyền do đồng chí Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng. Kể từ đây, ngày 28/8 đã trở thành ngày truyền thống của ngành Văn hóa thông tin suốt trong 80 năm qua.
Tại Nghệ An, sau khi chính quyền được thành lập, người dân thành phố Vinh đã dấy lên phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam bộ, hưởng ứng “Đoàn quân Nam tiến”, “Tuần lễ vàng”… Các đoàn thể, nghiệp đoàn, hội quần chúng đã tham gia nhiều hoạt động tổ chức quyên góp ủng hộ “Quỹ Nam bộ kháng chiến”. Giới văn nghệ sĩ tổ chức “Dạ hội văn hóa” với các tiết mục tự biên đặc sắc. Một thời kỳ văn hóa đã đồng hành và khắc phục những khó khăn trong những ngày đầu thành lập nước.
Tháng 1/1946, Bộ Tuyên truyền và cổ động được thành lập, thì ở Nghệ An cũng đổi tên là Ty Tuyên truyền và Văn nghệ do nhà văn Bùi Hiển làm Trưởng Ty. Đây là mốc quan trọng mở đầu cho cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp. Nhiệm vụ cách mạng trọng tâm thời kỳ này là tập trung tuyên truyền "diệt giặc dốt", "diệt giặc đói" và "diệt giặc ngoại xâm". Đặc biệt, thực hiện lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến" của Hồ Chủ tịch, nhiều phong trào đã nổi lên ở Nghệ An như "Bình dân học vụ", "Hũ gạo nuôi quân", "Xây dựng đời sống mới", "Nhường cơm sẻ áo"…, góp phần tích cực vào sự thành công của cuộc kháng chiến.
Năm 1947, Sở Thông tin Tuyên truyền Liên khu 4 được thành lập do ông Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều) làm Giám đốc. Từ đây, ngành Thông tin tuyên truyền được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến xã, bộ máy nhân sự cũng được kiện toàn với đội ngũ của Ty Tuyên tuyền và Văn nghệ lên tới 80 người. Cán bộ Ty phần lớn đều biết viết, vẽ, diễn thuyết, đàn hát và sáng tác. Các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn về kẻ vẽ, biên tập truyền thanh, dạy hát cũng liên tục mở ra, nâng cao tình chuyên môn cho đội ngũ cơ sở.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ngành Văn hóa Thông tin Nghệ An đã trở thành mũi nhọn trên mặt trận tuyên truyền, cổ vũ. Các hình thức tuyên truyền trong thời kỳ này diễn ra hết sức sôi nổi. Sân đình, nhà kho, lùm cây... bất cứ nơi đâu cũng có thể trở thành địa điểm tuyên truyền của cán bộ thông tin. Các trí thức uy tín chủ trì, lan tỏa chính sách, đường lối kháng chiến qua thơ ca, hò vè và tờ báo “Truyền thanh”, cơ quan ngôn luận của Ty Tuyên truyền và Văn nghệ Nghệ An.
Bước vào thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tại Nghệ An, cán bộ ngành Văn hóa Thông tin đồng hành cùng nhân dân trong các phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”. Với khẩu hiệu “Tiếng hát át tiếng bom”, “Tiếng loa hòa tiếng súng”, mỗi cán bộ văn hóa vừa là nghệ sĩ, vừa là chiến sĩ mang lời ca tiếng hát, sách báo, phim ảnh đến phục vụ chiến đấu và sản xuất. Ngày đó, lấy sân kho làm sân khấu, các nghệ sĩ cắt cử nhau cầm đèn măng sông canh chừng những trận tấn công bất ngờ của địch. Họ va vào nhau giữa các trận bom, vậy mà tiếng cười, tiếng hát vẫn vang lên.
Có khi, đang biểu diễn trên mâm pháo thì bất ngờ địch thả bom. Người nghệ sĩ lúc ấy cũng hòa vào chiến sĩ, trở thành người tiếp đạn đắc lực cho cánh pháo phòng không. Khi địch rút quân, họ lại vui vẻ cùng lau sạch mâm pháo, và tiếng hát lại cất lên như chưa từng cho trận chiến nào đi qua.


Trong ký ức của người dân ngày ấy, được xem các bộ phim tài liệu thời sự, phim truyện… ngay dưới hầm địa đạo, hoặc trong nhà kho hợp tác xã là những kỷ niệm sâu sắc khó phai. Ngày đó, điện ảnh là một đội quân xung kích của ngành Văn hóa. Với biên chế nhỏ gọn cùng những chiếc xe thồ, họ đã kịp thời cõng máy, cõng phim đến tận các trọng điểm bị đánh phá như cầu Cấm, ga Sy, ga Yên Lý… Để đảm bảo an toàn cho từng buổi chiếu, Anh hùng Lao động Trần Văn Giảng, Đội trưởng Đội chiếu bóng lưu động 109 huyện Diễn Châu, đã có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật độc đáo, trở thành kinh nghiệm quý báu cho toàn ngành học tập. Anh đã dùng 40 mét vải xanh đen che luồng ánh sáng phát ra từ máy chiếu phim đến màn ảnh vào ban đêm; dùng giấy tráng kim tuyến phản quang, hướng lên trời vào ban ngày để gây nhiễu máy bay địch, khiến chúng không phát hiện ra mục tiêu. Chứng kiến anh em sử dụng xe thồ, chở từng can xăng từ Hà Nội vào phục vụ chiếu bóng, Trần Văn Giảng đã mày mò nghiên cứu thành công thiết bị chèn xích phụ trong bộ chế hòa khí loại máy nổ 4 tầm của Liên Xô , giảm được lượng tiêu hao năng lượng từ 3 lít mỗi buổi chiếu xuống còn 1,5 lít mỗi buổi chiếu.

Có thể nói, giai đoạn 1945-1975, từ những nỗ lực phi thường, vượt qua bao khó khăn, một nền văn hóa cách mạng đậm đà bản sắc đã hình thành. Từ tinh thần sáng tạo, tiên phong, từ sự nghĩa tình với đồng bào, đồng chí, văn hóa Nghệ An đã đặt nền móng vững chắc, là bệ phóng cho sự phát triển mạnh mẽ ở các thời kỳ tiếp theo.
Đầu năm 1976, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Tinh thần “thay trời đổi đất”, với phong trào “đại công trường” đã tạo điều kiện cho hoạt động văn hóa phát triển rầm rộ. Đây là thời kỳ văn hóa được đưa trực tiếp ra công trường, phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu văn hóa của người lao động.
Thời kỳ này, mặc dù hoạt động trong điều kiện kinh phí khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn nhưng ngành Văn hóa Thông tin đã đạt được nhiều thành tựu. Hệ thống Bảo tàng không ngừng được mở rộng về quy mô. Ngoài Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh và Khu Di tích Kim Liên, có thêm Bảo tàng Nghệ An, Bảo tàng Quỳ Châu, Nhà lưu niệm Phan Bội Châu…, tạo điều kiện ban đầu cho ngành bước vào thời kỳ đổi mới.
VĂN HÓA NGHỆ AN - THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Tháng 8/1991, tỉnh Nghệ Tĩnh được chia tách thành 2 tỉnh Nghệ An và Hã Tĩnh. Từ đây, ngành Văn hóa Thông tin Nghệ An bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, tạo nhiều dấu ấn quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành.
Xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở
Xác định hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở là điều kiện thiết yếu cho công tác tuyên truyền, vận động, ngay từ rất sớm, Nghệ An đã xây dựng, phát triển đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa cấp xã, phường, thị trấn, khơi dậy khả năng sáng tạo, và phát huy nội lực của nhân dân. Các cán bộ văn hóa đã tỏa về các địa phương xây dựng thí điểm các mô hình nếp sống mới, từ việc cưới, việc tang đến các câu lạc bộ dân ca, hò vè…


Với nhiều cách làm sáng tạo, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa lan tỏa mạnh mẽ, tạo động lực thi đua xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Làng bản văn hóa”, “Khối, phố văn hóa”… Ở cấp tỉnh, thực hiện liên kết hoạt động giữa ngành Văn hóa và các ngành khác như: Bộ đội Biên phòng, Bưu điện, Giao thông…, đã tạo nên mạng lưới chỉ đạo đồng nhất, đưa các phong trào văn hóa phát triển từ chiều rộng đến chiều sâu, thấm sâu trong đời sống nhân dân.
Năm 2003, một trong những dấu ấn quan trọng là khánh thành và đưa vào sử dụng Quảng trường Hồ Chí Minh, một công trình văn hóa mang tầm vóc quốc gia. Đây là kết quả của ý chí quyết tâm vượt lên khó khăn, kết tinh tình cảm của nhân dân xứ Nghệ, cũng như người dân cả nước hướng về Người.

Năm 2008, sau hơn 1.000 ngày thi công, đền thờ Vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết được khánh thành, trở thành một điểm nhấn về văn hóa tâm linh của nhân dân khi về với vùng đất Yên Trường xưa. Đền được tọa lạc trên núi Dũng Quyết, thuộc phường Trường Vinh hiện nay. Núi có 4 chi gồm: long thủ (đầu rồng), phượng dực (cánh phượng, quy bôi (cồn rùa) và kỳ lân, hội tụ đủ tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng. Mỗi năm, đền đón hàng chục ngàn lượt du khách đến vãn cảnh, hành hương, chiêm bái.
Khôi phục văn hóa truyền thống
Văn hóa truyền thống là hồn cốt của tinh thần, là động lực của phát triển, bởi vậy, song song với việc tôn tạo, phục hồi các di tích lịch sử đã mai một, xuống cấp như đền Vua Mai, đền Cờn, đền Quả,… ngành Văn hóa đã tập trung khôi phục các lễ hội truyền thống. Lễ hội là sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, là bảo tàng sống về văn hóa, nơi con người soi vào để tự nhận diện chính mình. Cán bộ văn hóa, các chuyên gia đã bám sát đời sống, xây dựng chi tiết các kịch bản lễ hội. Phần lễ trên cơ sở tín ngưỡng, các nghi lễ trước đây, làm sống lại không gian thiêng được tích tụ qua bao thăng trầm lịch sử. Phần hội có tính mở, tích hợp các yếu tố văn hóa từ cổ xưa đến các hình thức trình diễn mới, đưa lại một không gian đầy màu sắc, mang đậm vẻ đẹp của một khu vực, một vùng đất. Thời kỳ này, một loạt các sáng tác mới phục vụ cho lễ hội cũng được hình thành, và trở thành ca khúc truyền thống của các lễ hội.


Bên cạnh lễ hội truyền thống, nhiều lễ hội mới được hình thành như: Lễ hội du lịch biển Cửa Lò, Lễ hội uống nước nhớ nguồn, Lễ hội làng Sen… Với Lễ hội Làng Sen, từ ý tưởng về một Kỳ liên hoan nghệ thuật quần chúng quy tụ những ca khúc viết về Bác Hồ, đã nhanh chóng lan tỏa, trở thành lễ hội cấp quốc gia, kết nối tình cảm thiết tha của các nghệ sĩ, diễn viên trong cả nước hướng về Người.

5 năm một lần, vào ngày sinh nhật Bác, Lễ hội Làng Sen toàn quốc được tổ chức không chỉ là “ngày hội văn hóa Hồ Chí Minh”, mà còn là biểu tượng sống động của đời sống văn hóa Việt Nam, nơi yếu tố truyền thống và hiện đại cùng tồn tại, hỗ trợ và tiếp biến lẫn nhau.
Các di sản văn hóa khác của xứ Nghệ cũng được khai thác phát huy có hiệu quả như: sưu tầm xuất bản các công trình văn nghệ dân gian về phong tục tập quán, nghề thủ công, âm nhạc, lễ hội dân gian,… Trên lĩnh vực này, không thể không nhắc tới sự đóng góp quý giá của PGS Ninh Viết Giao, nhạc sĩ Lê Hàm, nhạc sĩ Dương Hồng Từ… những người đã âm thầm, miệt mài “phủi bụi, tìm vàng”, lưu giữ những “vỉa vàng” về văn hóa cho mai sau. Hàng chục tập ca dao, dân ca vè, tổng tập Nghệ An toàn chí… đã khẳng định nét đặc sắc, phong phú của văn hóa Nghệ An trong dòng chảy văn hóa dân tộc.
Trong trường kỳ lịch sử, ví giặm luôn là bản hòa ca về tâm hồn, tính cách người Nghệ, thể hiện đời sống nội tâm sâu sắc, tình nghĩa, thủy chung. Từ thập niên 70, 80 của thế kỷ 20, song song với việc sưu tầm các làn điệu, lãnh đạo ngành Văn hóa đã chỉ đạo việc xây dựng kịch hát Nghệ Tĩnh. Bằng sự kiên trì, bền bỉ và sáng tạo, năm 1985, vở diễn Mai Thúc Loan được xem như một bản khai sinh của kịch hát Nghệ Tĩnh, khẳng định sự ra đời của một kịch chủng chính thức trong đại gia đình kịch hát Việt Nam.

Bên cạnh nhiệm vụ thể nghiệm sân khấu hóa dân ca, các nghệ sĩ đã rong ruổi tới khắp các nẻo miền quê, thực hiện nhiệm vụ Bảo tồn di sản, phục dựng không gian diễn xướng của các làng nghề xưa như hát phường vải, phường cấy, phường nón, phường củi cỏ, … Từ tiền thân là các phường hát, các câu lạc bộ dân ca dần được hình thành, trở thành “cái nôi” nuôi dưỡng và phát triển tài năng ví giặm trong đời sống. Qua nhiều lần khảo sát, qua nhiều buổi tọa đàm và hội thảo quốc tế, ngày 27/11/2014, Dân ca ví, giặm trở thành di sản thứ 9 của Việt Nam được UNSESSCO công nhận Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, mở ra một thời kỳ phát triển rực rỡ của dân ca ví, giặm.
Phát triển và hội nhập trong kỷ nguyên số
Những năm gần đây, văn hóa Nghệ An tiếp tục bừng sáng với những hoạt động đổi mới, sáng tạo. Các lễ hội đường phố như “Quê hương mùa sen nở”, “Sắc màu di sản”, “Sắc màu văn hóa các dân tộc Nghệ An” đã mang di sản đến gần hơn với công chúng, làm phong phú thêm đời sống văn hóa đô thị. Vẫn là câu ví giặm, vẫn là âm hưởng của câu lăm, câu khắp, nhưng giờ đây đã khoác thêm màu áo mới chuyển tải cuộc sống đầy sôi động và sắc màu.
Thế giới ngày càng số hóa, trong dòng chảy đó, Nghệ An đã triển khai ứng dụng công nghệ thực tế ảo. Những di tích, di sản,… không còn là hình thức trưng bày mà trở thành một câu chuyện, một hành trình khám phá và kết nối đầy độc đáo. Chuyển đổi số thực sự là “cú hích” góp phần thay đổi cách tiếp cận của người dân đối với các di sản văn hóa lịch sử theo hướng tích cực, hiện đại và sinh động hơn, mang tính cá nhân hóa. Ngành Văn hóa Nghệ An đang tích hợp các yếu tố, hướng đến phát triển kinh tế di sản, đưa di sản văn hóa trở thành một trong những động lực để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.


Trên mảng văn học nghệ thuật, nằm trong dòng chảy chung của đất nước, các văn nghệ sĩ đã phản ánh hơi thở đời sống một cách chân thực, thể hiện dấu ấn riêng của một vùng đất có giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, đã đạt giải thưởng trong nước và quốc tế tiếp tục khẳng định vị thế, tài năng của đội ngũ văn nghệ sĩ người Nghệ trong và ngoài tỉnh.
Như nhà sử học Phan Huy Chú đã từng đánh giá “Nghệ An là nơi có núi cao, sông sâu, phong tục trọng hậu, cảnh tượng tươi sáng, gọi là có danh tiếng hơn cả ở Nam Châu”. Vùng đất địa linh nhân kiệt, văn chương khoa bảng đó kiến tạo nên một vùng văn hóa riêng biệt, đậm đà bản sắc trên bản đồ văn hóa chung của đất nước. Kế thừa và phát huy những giá trị nội lực, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, thời gian qua, Nghệ An đã khơi dậy sức mạnh “mềm” của văn hóa, làm cho văn hóa lan tỏa, thấm sâu trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và đời sống xã hội, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh và bản sắc.