Bằng chứng lịch sử và pháp lý về chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được nhiều quốc gia, cộng đồng quốc tế và nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước khẳng định: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở 2 quần đảo này là rõ ràng, liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành – nguyên tắc chiếm hữu thật sự của công pháp quốc tế.
Từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, dù trải qua 3 triều đại phong kiến khác nhau, song triều đại nào cũng đều thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình với tư cách là Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, trong đó có Đội Hoàng Sa – một tổ chức do Nhà nước lập ra để quản lý, bảo vệ, khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Về sau, lập thêm Đội Bắc hải do Đội Hoàng Sa kiêm quản, hoạt động.
Thời thực dân Pháp xâm lược và thiết lập ách cai trị, với tư cách là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại theo Hiệp ước Patenote (1884), chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng thủ tục pháp lý đương đại.
Đến thời kỳ 1954 – 1975, khi Việt Nam tạm thời chia 2 miền Nam – Bắc, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm dưới Vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chỉnh thể có tư cách pháp lý trong quan hệ quốc tế đã tiếp tục bảo vệ và quản lý 2 quần đảo này.
Đối với quần đảo Trường Sa, ngày 12/10/1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh đổi tên các tỉnh miền Nam và đặt quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy.
Ngày 6/9/1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ký Nghị định số 40-BNV-HCDP sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Tháng 4 năm 1975, các lực lượng Quân Giải phóng nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có Quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau năm 1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa bằng nhiều hoạt động, vừa đảm bảo đầy đủ và đúng thủ tục trên phương diện đấu tranh pháp lý, vừa đảm bảo củng cố và duy trì sự hiện diện của quân và dân trên các thực thể địa lý hiện đang đặt dưới sự quản lý của Nhà nước Việt Nam.
Ngày 25/4/1976, trong số báo đặc biệt về Tổng tuyển cử, báo “Sài Gòn Chủ nhật” in bản đồ Việt Nam thống nhất với 2 thực thể địa lý: Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Và hơn 4 tháng sau, bản đồ Việt Nam thống nhất với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa xuất hiện trên số đặc biệt của báo “Nhân Dân”, số ra ngày 2/9/1976 kỷ niệm ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 15/2/1977, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra “Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam”.
Sau cuộc tấn công của Trung Quốc ở các tỉnh biên giới phía Bắc từ ngày 17/2/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi ngay Công hàm cho Liên hợp quốc yêu cầu Trung Quốc ngừng ngay cuộc chiến tranh xâm lược. Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/3/1979 nêu rõ: “Quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) cách Đà Nẵng khoảng 120km về phía Đông. Phía Việt Nam có đầy đủ tài liệu để chứng minh rằng, quần đảo này cũng như quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở phía Nam, là lãnh thổ Việt Nam”.
Ngày 7/8/1979, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ: “Những nhà nước phong kiến Việt Nam là người đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu, tổ chức, kiểm soát và khai thác với tư cách Nhà nước đối với quần đảo này. Những việc làm thực sự rõ ràng, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ căn cứ lịch sử và pháp lý về chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với 2 quần đảo đó”. Đồng thời tuyên bố vạch rõ việc Trung Quốc đưa lực lượng vũ trang xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa năm 1974 là “đã xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, đồng thời chà đạp nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc là giải quyết mọi vấn đề tranh chấp bằng thương lượng hòa bình”.
Tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố cuốn Sách Trắng “Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, nêu rõ “Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời, khi mà các quần đảo đó chưa hề thuộc chủ quyền một quốc gia nào. Từ đó đến nay, Việt Nam liên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục công bố cuốn Sách Trắng “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa – Lãnh thổ Việt Nam” được biên soạn trên cơ sở kế thừa cuốn Sách Trắng năm 1979 và bổ sung các nghiên cứu mới. Ngoài việc điểm lại các tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam, cuốn sách đã sử dụng tài liệu của chính Trung Quốc để phản bác lại những luận điệu, đòi hỏi và hành động phi lý của Trung Quốc hòng phủ nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này. Đây vừa là một văn kiện ngoại giao, vừa là một công trình nghiên cứu có giá trị khoa học về mặt lịch sử và pháp lý.
Ngày 9/12/1982, theo Quyết định 194-HĐBT, Việt Nam đã thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (nay là thành phố Đà Nẵng) và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Phú Khánh (nay là tỉnh Khánh Hòa). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quản lý hành chính quần đảo Hoàng Sa, Nhà nước Việt Nam xác lập mô hình quản lý mới: Nâng quần đảo Hoàng Sa lên cấp huyện, là “huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng”.
Như vậy, có thể khẳng định 2 vấn đề:
Thứ nhất, Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đời khi mà các quần đảo đó chưa hề thuộc chủ quyền một quốc gia nào.
Thứ hai, trong giai đoạn 1975 – 1988, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên tục đấu tranh, phản bác các yêu sách Trung Quốc, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tròn 35 năm trôi qua, nhưng khi nhắc đến Gạc Ma, chúng ta cần thấu hiểu về kiến thức và nhận thức đúng đắn về sự kiện này ở mấy điểm sau.
Thứ nhất, trước khi diễn ra sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988, Trung Quốc đã có nhiều hành động ngang ngược, xâm nhập, khiêu khích quân sự, vi phạm chủ quyền tại các bãi đá ngầm Chữ Thập, Châu Viên, một số bãi đá ngầm khác ở khu vực đảo Sinh Tồn trong quần đảo Trường Sa.
Không phải ngẫu nhiên mà trước khi quyết định đánh chiếm Gạc Ma vào tháng 3 năm 1988, thì vào tháng 7 năm 1987, Trung Quốc đã quyết định thành lập tỉnh Hải Nam (tỉnh thứ 36 của Trung Quốc) bao gồm cả 2 khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên mà những hành động gây căng thẳng và nguy hiểm nói trên của Trung Quốc diễn ra vào thời điểm đầu năm 1988, trong khi xu thế đối thoại thay cho đối đầu đang phát triển mạnh mẽ giữa các bên Cam Pu Chia và các nước có liên quan ở Đông Nam Á nhằm giải quyết “Vấn đề Cam Pu Chia” và vấn đề hòa bình, ổn định trong khu vực.
Việc chiếm trái phép đảo Gạc Ma một lần nữa cho thấy, Trung Quốc luôn tận dụng cơ hội, chớp thời cơ để hiện thực hóa tham vọng của họ ở Biển Đông.
Việt Nam đã ra các tuyên bố, tuyên cáo ngoại giao, các bài báo xã luận khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, yêu cầu Trung Quốc phải chấm dứt ngay mọi hành động khiêu khích.
Thứ hai, lịch sử cần phải minh định và tái khẳng định bản chất của sự kiện không phải là một trận “hải chiến”. Đó là một vụ “thảm sát” tàn bạo của hải quân Trung Quốc với một đơn vị bộ đội công binh của Hải quân Việt Nam đang xây dựng đảo, xác lập chủ quyền. Sau sự kiện này, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép hòn đảo này bất chấp sự phản ứng của dư luận thế giới và pháp lý quốc tế. Trung Quốc muốn chọn Gạc Ma làm một “pháo đài” giữa Biển Đông, là “yết hầu” của quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ muốn chiếm để “gặm nhấm” dần quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đó là hành động nằm trong âm mưu chiến lược, có toan tính và sự chuẩn bị lâu dài. Thực tế những gì sau khi Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma đã nói lên điều đó.
Thứ ba, sau trận chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân Việt Nam anh dũng hy sinh, 3 tàu Hải quân HQ-505, HQ-604, HQ-605 bị bắn chìm, 9 chiến sĩ bị bắt giữ. Đến ngày 2/9/1991, 9 chiến sĩ bị bắt giữ mới được phía Trung Quốc trao trả về Việt Nam qua Cửa khẩu Hữu nghị ở Lạng Sơn. Xét trong bối cảnh, điều kiện lịch sử, tương quan lực lượng và tính chất của sự kiện này thì đó là một sự hy sinh anh dũng vì Tổ quốc!
Thứ tư, ngay trong ngày 14/3/1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra Tuyên bố về việc tàu Trung Quốc nổ súng vào tàu vận tải của Việt Nam ở vùng biển quần đảo Trường Sa, nêu rõ: “Sáng 14/3/1988, các tàu chiến của Trung Quốc đang hoạt động trái phép ở vùng biển quần đảo Trường Sa, đã ngang nhiên nổ súng vào 2 tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc khu đảo Sinh Tồn. Tàu của ta buộc phải nổ súng để tự vệ”. Ngày 15/3/1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam tiếp tục gửi Công hàm phản đối Trung Quốc cho tàu chiến bắn vào tàu vận tải Việt Nam. Công hàm nêu rõ: “Bất chấp sự phản đối của nhân dân và Chính phủ Việt Nam, sự lo ngại sâu sắc của dư luận thế giới và các nước ven Biển Đông, đi ngược lại nguyện vọng chung sống hữu nghị của nhân dân 2 nước Việt – Trung, hành động một lần nữa chứng tỏ nhà cầm quyền Trung Quốc cố tình sử dụng vũ lực mưu toan mở rộng quy mô xung đột ở vùng biển quần đảo Trường Sa”.
Thứ năm, quan điểm hành xử của Việt Nam được đăng trên nhiều bài xã luận trên nhiều cơ quan ngôn luận chính thống của Nhà nước Việt Nam, ngoài việc nêu những căn cứ lịch sử, cơ sở pháp lý, phản đối hành động bạo lực của Trung Quốc thì Việt Nam luôn thể hiện tinh thần thiện chí giải quyết vấn đề Trường Sa bằng đàm phán hòa bình, yêu cầu Trung Quốc sớm trao trả thủy thủ Việt Nam bị bắt.
Sự kiện Gạc Ma đã lùi xa 35 năm, nay nhắc lại vẫn luôn vẹn nguyên tính thời sự. Sự hy sinh anh dũng của 64 người lính quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam ngày 14/3/1988 trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền ở Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa là một tráng ca bất tử và các anh đã làm nên một “Vòng tròn bất tử” giữa biển khơi.
Thứ nhất, xâu chuỗi nhiều sự kiện liên quan đến cách hành xử của Trung Quốc với Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa năm 1956, 1974 và đảo Gạc Ma của Trường Sa năm 1988, khẳng định một thực tế: Việc Trung Quốc dùng vũ lực để đánh chiếm Gạc Ma không chỉ đơn thuần là muốn sở hữu hòn đảo này. Đó là một hành động nằm trong âm mưu chiến lược độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, là từng bước cụ thể hóa “Đường lưỡi bò” phi lý mà họ đã chủ động vẽ ra. Đó là một toan tính nguy hiểm không chỉ đe dọa chủ quyền lãnh thổ Việt Nam mà còn gây ra sự bất ổn trong khu vực và đe dọa hòa bình thế giới. Bài học của một số nước ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á về chủ quyền biển đảo với Trung Quốc luôn là những nhân chứng sinh động để lại bài học lịch sử nhãn tiền cho Việt Nam.
Thứ hai, chỉ có sự vững chắc về kinh tế mới là nhân tố tiên quyết bảo đảm sự bền vững và tự tin về an ninh quốc phòng trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Xét trong phạm vi hẹp, xưa nay trong lịch sử nhân loại, chân lý luôn thuộc về kẻ mạnh. Xét về góc độ lịch sử quan hệ quốc tế nhiều thế kỷ qua, các cường quốc luôn chi phối quan hệ quốc tế và trật tự thế giới. Ngược lại, các nước nhỏ và yếu thường sẽ hay bị lệ thuộc về kinh tế và gặp bất lợi khi giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột quân sự. Vì vậy, tôi cho rằng, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc, ngoài đường lối, chính sách đối ngoại của Nhà nước và nhân dân, chúng ta phải dần độc lập, tự chủ về kinh tế, hoặc ít ra là hạn chế đến mức thấp nhất sự lệ thuộc từ bên ngoài về vốn đầu tư, công nghệ, thị trường.
Thứ ba, từ sự kiện Gạc Ma của 35 năm trước, thêm một dịp để khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, trong bối cảnh thế giới đang luôn biến đổi đầy phức tạp và khó lường.
Dù trải qua nhiều khó khăn, thách thức nhưng Việt Nam luôn kiên quyết, kiên trì, liên tục đấu tranh khẳng định chủ quyền với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa theo công pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
Trong một thế giới đa chiều, đa cực chằng chéo và đan xen nhiều lợi ích ấy, một mệnh đề luôn đúng được tất cả các quốc gia thừa nhận từ sự sàng lọc của lịch sử là: Không có kẻ thù vĩnh viễn và bạn vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia dân tộc là vĩnh viễn. Điều cốt lõi mà chúng ta cần nhận thức rõ và thấu hiểu giữa nội hàm của các cặp phạm trù bạn và thù, đối tác và đối thủ, đấu tranh và hợp tác và phải luôn đặt lợi ích chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ các quan điểm nhất quán, trong đó các nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên như: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo; chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia./.