美国总统有病假吗?

Theo Báo Tin Tức March 9, 2018 08:12

从理论上讲,美国总统从未休息过一天。即使休假,他们仍然是国家领导人,每天要完成许多工作,例如接收情报或国家安全简报,或处理紧急情况。因此,美国总统没有病假。

第25修正案

当然,美国总统也是人,甚至经常是老人。所以他们会生病,而且经常病得很重。那么,美国总统生病时该怎么办呢?这是美国宪法第25修正案规定的。因此,当总统病情严重到无法履行必要职责时,副总统可以担任“代理总统”,直到总统能够履行职责为止。这是总统根据需要请病假的机制。

修正案还指出,如果总统即使无法履行职责也不愿意放弃权力,副总统只需“代行职务”,直到总统能够履行职责为止。

尽管许多美国总统在任期间都曾患有严重的健康问题,并且经常丧失工作能力,但自第 25 条修正案批准以来的半个世纪里,只有两位总统真正运用过该修正案。

第一位使用这种“休息时间”的总统是罗纳德·里根,他于1985年7月13日将权力暂时移交给副总统乔治·布什,因为布什正在接受结肠癌手术。布什随后有八个小时的总统任期,之后里根康复后重返办公室。

在上午11点28分将总统职位移交给布什先生之前,里根先生一上午照常工作。晚上7点22分再次就任总统后,他利用晚上的时间回顾了八小时手术和康复期间发生的一切。

图片:AP

2002年和2007年末,乔治·W·布什总统授权副总统进行结肠镜检查。每次,副总统迪克·切尼都只代理总统职务两个多小时,等布什返回工作岗位后再移交权力。布什担任总统的八年里,只有四个小时的休息时间。

这令人震惊,因为美国总统在任期间患重病的比例很高。最著名的例子是伍德罗·威尔逊总统,他在1919年患上严重中风,导致左半身暂时瘫痪。他的左眼也失明了,右眼视力也下降了。由于威尔逊总统的妻子伊迪丝和医生卡里·格雷森对此讳莫如深,因此他当时的精神状态不得而知。

那么,威尔逊总统在当时的情况下是如何治理国家的呢?实际上,他什么也没做。他的妻子决定哪些信息可以传达给他,哪些事务可以直接委托给他人。在总统中风后的几周内,她还禁止任何人直接接触总统。唯一的例外是格雷森医生。

伊迪丝后来表示,她研究了部长和参议员提交给总统的每一份文件。她坚称自己从未代表丈夫就公共事务做出任何决定。然而,这一说法尚未得到证实。

威尔逊在接下来的一年半里逐渐康复,但他的精神和身体状况是否足以继续担任总统仍是一个疑问。然而,威尔逊拒绝放弃权力,这在几十年后起草第二十五修正案时成为了讨论的关键点。

在威尔逊总统前后,有几位总统都曾患过不同程度的疾病。其中最引人注目的是德怀特·E·艾森豪威尔总统在任期间突发严重心脏病,随后中风。他还因炎症性肠病并发症而不得不切除约25厘米的小肠。

在此期间,艾森豪威尔先生请了几天病假,并要求司法部长小赫伯特·布朗内尔起草一份文件,将部分权力和职责移交给副总统理查德·尼克松。

其他总统在必要时也曾采取过类似的做法。然而,他们总是秘密行事,以免公众知晓他们的健康问题。艾森豪威尔总统打破了这种保密的惯例,试图通过正式公开来开创先例。

Trong thực tế, Khoản 6, Phần 1, Điều II trong Hiến pháp Mỹ cho phép chuyển giao quyền lực như vậy nhưng từ ngữ không rõ ràng, khiến người ta không rõ liệu trong trường hợp này, phó tổng thống có thực sự có quyền như tổng thống thống hay không. Nhiều vấn đề có thể nảy sinh đặc biệt là khi có tình huống khẩn.

Sức khỏe Tổng thống Kennedy

Vấn đề một lần nữa được đặt ra thời Tổng thống John F. Kennedy - người vốn là biểu tượng của sự sung mãn, tuổi trẻ và khỏe mạnh. Nhưng hóa ra, chính ông Kennedy lại là người cần đội ngũ bác sĩ hỗ trợ trong suốt thời làm tổng thống. Đây là thông tin mà chỉ mới gần đây công chúng mới biết.

Tổng thống Kennedy gặp rất nhiều vấn đề sức khỏe và đều nghiêm trọng. Đầu tiên là căn bệnh Addison có thể đe dọa tính mạng. Đây là loại bệnh mà tuyến thượng thận không sản xuất đủ hormone cần thiết.

Tiếp đó là chứng loãng xương khiến lưng Tổng thống Kennedy bị rạn ba đốt sống. Ông cũng bị triệu chứng co thắt ruột kết, khiến ông bị những cơn đau bụng nghiêm trọng và thường xuyên bị tiêu chảy nguy hiểm. Ngoài ra, ông còn mắc chứng giảm hoạt động tuyến giáp.

Để điều trị tất cả những bệnh trên, Tổng thống Kennedy phải dùng hormone tuyến giáp, thuốc Ritalin, thuốc ngủ gây tê, thuốc Demerol, thuốc an thần, vô số loại thuốc chống tiêu chảy và kháng sinh cùng hơn 10 loại thuốc đủ loại nữa.

Nhiều loại thuốc có thể ảnh hưởng tới tâm trạng và khả năng ra quyết định. Tuy nhiên, nếu không dùng, Tổng thống Kennedy sẽ ngã quỵ vì đau. Theo cố vấn chính trị Dave Powers, kể cả khi dùng thuốc, ông Kennedy cũng luôn phải đi lại bằng nạng. Khi khuất khỏi con mắt của công chúng, ông nghiến răng kèn kẹt vì đau. Còn khi xuất hiện trước đám ông, ông lại đi thẳng, mỉm cười, trông khỏe mạnh như nhà vô địch cử tạ thế giới. Để sau đó, Dave Powers lại phải dìu Tổng thống vào ô tô.

Tu nhiên, tình trạng bệnh tật của Tổng thống Kennedy không phải là xúc tác để soạn Tu chính án thứ 25 mà chính là khi ông bị bắn. Khi đó, một câu hỏi được đặt ra: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Kennedy còn sống nhưng trong tình trạng chết não?

Một năm rưỡi sau vụ ám sát Kennedy, tháng 7/1965, quốc hội gửi Tu chính án thứ 25 về các bang để thông qua và ngày 10/2/1967, Tu chính án này có hiệu lực. Nội dung tóm tắt của tu chính án là tổng thống không có ngày nghỉ ốm nhưng Tu chính án thứ 25 cho họ cơ chế nghỉ ốm nếu họ cảm thấy không thể thực hiện nhiệm vụ tổng thống. Tuy nhiên, hầu như không tổng thống Mỹ nào trong lịch sử từng sử dụng Tu chính án thứ 25, trừ hai trường hợp Ronald Reagan và George Bush kể trên. Đối với những người còn lại, họ có xu hướng dấu dư luận về bệnh tật, tìm cách sắp xếp công việc để có thể nghỉ ngơi đôi chút.

Theo Báo Tin Tức