打击非法、不报告和不管制捕鱼,可持续保护水生资源
《非法、不报告和不管制》捕捞条例于 2008 年由欧盟委员会 (EC) 通过,并于 2010 年 1 月生效。该条例的目标是建立一个全欧洲 (EU) 的系统,以防止和消除 IUU 捕捞的渔业产品进口到欧盟市场。
IUU捕鱼是一种威胁
欧盟委员会表示,IUU捕鱼活动是指船只未经许可,或虽获得许可但违反渔业法规,为获取比按照可持续渔业规定进行的捕鱼更大的利润而进行的捕鱼活动。
非法、不报告和不管制捕鱼是对水资源和海洋生物多样性维护和保护的最大威胁,对全球环境和社会经济造成严重影响。
据估计,IUU捕捞活动占全球年海产品总产量的近20%。由于缺乏控制机制和可追溯性解决方案,大多数IUU捕捞活动发生在发展中国家。
欧盟是全球最大的海产品进口市场(约200亿欧元),也是非法、不报告和不管制捕捞海产品的潜在市场。因此,欧盟委员会出台了IUU法规,以防止非法、不报告和不管制捕捞产品进入欧盟,展现其对国际社会的责任。因此,进口到欧盟的海产品必须持有捕捞证书。

渔船所在国主管当局必须证明船上捕捞的渔业产品符合渔业资源管理和养护的法律和国际法规的规定。该证明由主管当局签发,适用于所有加工或未加工的产品。
此外,对于仍在进行非法、不报告和不管制捕捞的国家,欧盟委员会将发出“黄牌”警告,要求其根据建议采取措施改进和纠正。如果情况没有改善,则将被发出“红牌”惩罚,即禁止向欧盟出口海产品。
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang EU của các nước bị thẻ vàng chịu sự kiểm soát 100%, nên thời gian nhập kéo dài, tốn kém chi phí. Đồng thời hình ảnh đất nước bị ảnh hưởng ở hầu hết thị trường của thế giới vì danh sách này được EU công khai.
Tóm lại, hành vi đánh bắt thủy sản của tàu thuyền không có đăng ký, không có giấy phép hoặc vi phạm quy định về bảo vệ nguồn lợi theo quy định của pháp luật nước sở tại hoặc của tổ chức quản lý khu vực, quy định của luật pháp quốc tế ở mọi vùng biển hoặc không báo cáo hoặc báo cáo không đúng với cơ quan có thẩm quyền của quốc gia hoặc tổ chức quản lý là hành vi đánh bắt IUU.
Quy định của Luật Thuỷ sản

So sánh với luật pháp Việt Nam, cụ thể theo Luật Thủy sản năm 2017, tại khoản 1, điều 60 quy định những hành vi được coi là khai thác bất hợp pháp gồm: Khai thác thủy sản không có giấy phép; Khai thác thuỷ sản trong vùng cấm khai thác, trong thời gian cấm khai thác; khai thác, vận chuyển thủy sản cấm khai thác; khai thác loài thủy sản có kích thước nhỏ hơn quy định; sử dụng nghề, ngư cụ khai thác bị cấm; Khai thác trái phép loài thủy sản thuộc Danh mục loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm; Khai thác thủy sản trái phép trong vùng biển thuộc quyền quản lý của tổ chức quản lý nghề cá khu vực, quốc gia và vùng lãnh thổ khác; Khai thác thủy sản vượt sản lượng theo loài, khai thác sai vùng, quá hạn ghi trong giấy phép; Che giấu, giả mạo hoặc hủy chứng cứ vi phạm quy định liên quan đến khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Ngăn cản, chống đối người có thẩm quyền thực hiện kiểm tra, giám sát sự tuân thủ các quy định về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Chuyển tải hoặc hỗ trợ cho tàu đã được xác định có hành vi khai thác thủy sản bất hợp pháp, trừ trường hợp bất khả kháng; Không trang bị hoặc trang bị không đầy đủ hoặc không vận hành thiết bị thông tin liên lạc và thiết bị giám sát hành trình theo quy định.
Ngoài ra còn có các hành vi: Không có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định; Tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam thủy sản, sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ khai thác thủy sản bất hợp pháp; Không ghi, ghi không đầy đủ, không đúng, không nộp nhật ký khai thác thủy sản, không báo cáo theo quy định; Sử dụng tàu cá không quốc tịch hoặc mang quốc tịch của quốc gia không phải là thành viên để khai thác thủy sản trái phép trong vùng biển quốc tế thuộc thẩm quyền quản lý của tổ chức quản lý nghề cá khu vực; Sử dụng tàu cá để khai thác thủy sản không theo quy định về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong vùng biển quốc tế không thuộc thẩm quyền quản lý của tổ chức quản lý nghề cá khu vực.
Như vậy, về mặt pháp lý, Luật Thủy sản hoàn toàn phù hợp với tiêu chí chống đánh bắt IUU của châu Âu.
Vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản là nhu cầu bức thiết bởi ngành khai thác thủy sản đang thực sự thiếu bền vững. Theo điều tra của các Viện Nghiên cứu hải sản, giai đoạn 2000 - 2005, trữ lượng hải sản vùng biển Việt Nam khoảng 4,82 triệu tấn, khả năng khai thác cho phép khoảng 2,1- 2,4 triệu tấn/năm.
Tuy nhiên, đến giai đoạn 2016- 2020, theo điều tra, trữ lượng hải sản biển Việt Nam chỉ còn 3,95 triệu tấn giảm 9,5% so với giai đoạn 2011- 2015 và 22,1% so với giai đoạn 2000- 2005, trong đó trữ lượng hải sản tầng đáy suy giảm nhanh hơn. Trong khi đó, năm 2020 sản lượng khai thác đạt 3,8 triệu tấn, vượt trên 60% sản lượng khai thác cho phép.
Từ hệ lụy trên gây ra hệ lụy mới, đó là hiệu quả khai thác của ngư dân ngày càng giảm. Theo số liệu thống kê, năm 1985 bình quân sản lượng khai thác trên một CV công suất tàu bình quân cả nước là 1,1 tấn, thì đến năm 2019 chỉ còn 0,26 tấn/CV.
义安省也不例外,1989年每艘渔船的平均产量为0.83吨,而到2021年仅为0.289吨/渔船。
可以说,近期渔业产量的增加是由于开发程度的提高(船只数量、捕捞能力的提升)。这导致渔民收入下降。而这正是非法捕捞(IUU)的根本原因之一。
另外,虽然我们已经完成了所有法律要求,并且决心很大,但在实践中,过去也存在很多不足,因此相比菲律宾和泰国,欧洲向我们发出“黄牌”的时间更长。
义安省重视水产资源保护
义安省海岸线长82公里,拥有5个入海口。该省位于北部湾入海口,渔业较为发达,是北部省份中规模最大的渔业省份之一。目前,全省共有渔船3614艘。截至2023年10月18日,需登记的渔船(船长最长6米及以上)数量为2717艘,其中已登记的渔船2470艘(占比90.91%)。
截至2023年10月18日,全省渔业从业人员将超过16,660人,其中远洋渔业从业人员8,408人,远洋渔业从业人员3,109人,沿海渔业从业人员5,143人。
全省每年开发各类海产品约20万吨。
近年来,乂安省委、省人民委员会对水产资源保护工作给予了大力指导。已出台多项措施,如支持渔民安装船舶设备(航次监测、鱼探仪、远程无线电等),支持渔船改组、转业等,并加强了登记、检查、渔业监察等方面的管理。
然而,仍有许多问题需要解决,例如:产量超过允许的开采能力、开采生产力降低、非法开采、开采日志不正确、未注册的小船……特别是让渔民从捕鱼转为其他职业以减轻压力的问题。

为保护水产资源,促进水产养殖业可持续发展,同时推动欧盟“黄牌”的解除,需重点关注以下问题:
- 进一步加强面向全体渔民和各级干部的宣传工作,使其认识到保护水资源和打击非法捕捞(IUU)活动对渔民长远生计、生活和收入的重要性。这必须被视为一项源于内部迫切需要的任务,而不仅仅是为了消除欧盟“黄牌”警告。
- 密切渔业监管、边防、海警、渔港、地方当局等部门之间的协调配合,持续改进管理措施,并制定打击非法、不报告和不管制捕捞的解决方案。严厉打击非法捕捞违法行为,在航次监测、捕捞日志等方面采取相应措施。对典型案件进行查处,起到震慑作用,树立典型示范作用。
——彻底解决未登记小型船舶数量(主要集中在沿海地区)、无航行设备船舶数量(主要集中在修理船舶群)。
- 尽早应用信息技术,实现渔业日志数字化(目前正在部分省份进行试点),并追踪水产品来源,方便渔民出海作业。特别是,应用信息技术,实现全国渔港管理互联互通,首先是渔船停靠义安省的省份,以及渔船停靠义安省的省份。
- 要尽快出台支持渔民的政策,特别是支持渔民从渔业转业,在禁捕季节为渔民提供支持,为渔民提供职业培训(捕捞、养殖、加工、服务、工业、信息技术应用……),支持劳务输出……
- 继续推动将水生资源开发与保护结合起来的解决方案。特别是,计划立即落实政府总理于2024年4月9日颁布的第389号决定,该决定题为“批准2021-2030年水生资源保护与开发规划(展望2050年)”。该决定必须重点关注规划的一贯理念:减少开发,发展海水养殖,保护海洋资源!
开发和保护水产资源,以透明、有效、可持续和负责任的方式发展渔业,是我们当前紧迫而长期的任务。渔业为国家乃至义安省的经济社会发展做出了诸多贡献,然而,监管力度不够,效率和可持续性仍然较低。
胡伯伯教导说:我们的银色大海是人民的!当人民真正拥有了所有权,各级政府和职能部门做好管理和监督工作,这片海洋就一定能得到保护,渔场也一定能以透明、负责任、可持续和有效的方式得到开发和维护。