Chuyên đề: Hành trình gieo chữ nơi biên cương Tổ quốcKỳ 2: Nơi yêu thương nảy mầm theo hành trình "cắm bản"
Với tình yêu nghề và lòng tận tụy, nhiều giáo viên miền xuôi đã tình nguyện ở lại cắm bản để mang con chữ đến với học trò vùng cao. Vượt qua những khó khăn của ngày đầu, họ dần tìm thấy niềm vui trong từng tiết giảng. Giữa lớp học đơn sơ ở chính nơi mà người ta vẫn gọi là vùng gian khó, theo năm tháng, đã hóa thành “miền yêu thương”. Là nơi họ gửi gắm thanh xuân, niềm tin và tình yêu trọn vẹn với nghề dạy học.
.png)
Nhóm Phóng viên - Kỹ thuật: Hồng Toại • 05/11/2025
------------------o0o------------------
Với tình yêu nghề và lòng tận tụy, nhiều giáo viên miền xuôi đã tình nguyện ở lại cắm bản để mang con chữ đến với học trò vùng cao. Vượt qua những khó khăn của ngày đầu, họ dần tìm thấy niềm vui trong từng tiết giảng. Giữa lớp học đơn sơ ở chính nơi mà người ta vẫn gọi là vùng gian khó, theo năm tháng, đã hóa thành “miền yêu thương”. Là nơi họ gửi gắm thanh xuân, niềm tin và tình yêu trọn vẹn với nghề dạy học.
------------------o0o------------------
.png)
Những ngày này, mảnh đất biên giới Nậm Cắn đã bắt đầu se lạnh. Lũ trẻ đến trường đã phải khoác thêm những chiếc áo dày hơn, ấm hơn. Dẫu rằng hành trình gắn bó với con chữ nơi non cao vẫn còn nhiều gian khó, nhưng bên cạnh các em luôn có những người thầy, người cô sẵn sàng đồng hành và thấu hiểu. Trong số đó, có một cô giáo đặc biệt đã tình nguyện rời bỏ phố thị, mang theo trọn vẹn tình yêu và nhiệt huyết để ở lại cùng học trò. Cô chính là Lê Thị Liễu (SN 1973), giáo viên tại điểm trường Noọng Dẻ, Trường PT Dân tộc bán trú TH Nậm Cắn 1 (xã Nậm Cắn) với hành trình hơn 32 năm cắm bản đầy yêu thương.
.jpg)
Khi nhắc đến cô, bà La Thị Tứ (SN 1956) - người đồng bào Thái ở bản Nọong Dẻ, luôn dành cho cô sự quý mến chân thành. Bà kể, gia đình mình thuộc diện hộ nghèo, chồng mất sớm, một mình bà gồng gánh nuôi bốn người con là La Văn Thong (SN 1994), La Văn Đắm (SN 1996), La Văn Tòi (SN 2000) và La Thị Tha (SN 2001), tất cả từng theo học tại điểm trường Nọong Dẻ và đều được cô Liễu dìu dắt, quan tâm tận tình.
Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn trăm bề khiến bà không thể chăm lo đầy đủ cho các con. Thấu hiểu nỗi vất vả ấy, cô Liễu đã luôn bên cạnh, giúp đỡ từ sách vở, quần áo cho đến đôi dép đi học. Sự quan tâm ấy, theo lời bà Tứ, đã trở thành chỗ dựa vững chắc, để các con yên tâm đến trường, học chữ và lớn lên từng ngày.

Bà Tứ còn nhớ, cách đây hai năm, cô con gái La Thị Tha sau những tháng ngày đi làm thuê đã trở về nhà. Điều đầu tiên em mua từ đồng lương tự mình kiếm được là một chiếc quần để tặng cô giáo Liễu. Em nâng niu món quà ấy, bởi đó là thành quả lao động của chính mình và cũng là tấm lòng dành cho người phụ nữ thứ hai mà em yêu thương nhất. Cô giáo Liễu hiểu được sự vất vả của em, cô không nỡ nhận món quà ấy nhưng La Thị Tha đã quay về, mang theo một con gà nhỏ để dành tặng cô. Đó là kỷ niệm ấm áp mà đến bây giờ bà Tứ và cô Liễu vẫn còn nhớ mãi.
.png)
Chia sẻ về hành trình hơn 30 gắn bó với mảnh đất biên viễn này, cô Lê Thị Liễu cho biết, ngay sau khi ra trường tháng 9 năm 1993, cô được phân công về công tác tại Trường Tiểu học Nậm Cắn 1 nay là Trường PT Dân tộc bán trú TH Nậm Cắn 1- xã Nậm Cắn. Thời điểm đó, đa phần các em học sinh không biết tiếng phổ thông, cô phải dạy các em từ những điều giản dị nhất như đi đứng đến chào hỏi, cầm bút.
Học sinh của cô dạy đều rải khắp 6 bản gồm bản Huồi Pốc, Pà Ca, Tiền Tiêu, Trường Sơn, Khánh Thành và Noọng Dẻ. Có những học sinh ở bản Huồi Pốc cách xa trường đến hơn 15km. Các em còn nhỏ, đi lại khó khăn, phải lên dốc, xuống đèo, qua suối. Những lớp học ở đây cũng hết sức đơn sơ, chỉ là những nhà học tạm, nắng chiếu qua vách lớp, mái nhà, ngày mưa học sinh vẫn được cảm nhận cả cái mưa rừng lạnh giá. Buổi tối, những giáo viên cắm bản lại tiếp tục đi dạy các lớp phổ cập. Để hiểu thêm về học sinh khi hầu hết các em là người dân tộc thiểu số, sau mỗi giờ học, cô tranh thủ trò chuyện với học trò để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em. Thời gian rảnh, cô ghé thăm nhà học sinh để biết thêm về phong tục tập quán nơi đây.
“Tôi tìm tòi những phương pháp sáng tạo mới để thu hút các em vào bài giảng, tổ chức các hoạt động ngoài giờ để các em thêm mạnh dạn, tự tin. Nhiều bạn bè cùng trang lứa bảo tôi đủ thời gian công tác ở vùng sâu mà không chịu xin về vùng thuận lợi. Nhưng tôi yêu mến mái trường đơn sơ, yêu mến người dân và mảnh đất khô cằn, yêu mến đàn trẻ thơ có sức sống mãnh liệt nơi đây. Giáo viên cắm bản như tôi, đâu ngại gì khó khổ, nhưng chỉ cần thấy các em đi học đông đủ đã là mừng lắm rồi”, cô Liễu bộc bạch.
Vậy là chuyến “lên non” dạy chữ ấy đã kéo dài trọn 32 năm. Gắn bó với vùng đất còn nhiều khó khăn, chứng kiến những thay đổi từng ngày của con người và mảnh đất nơi đây, cô không khỏi xúc động. Nhiều học sinh từ những ngày đầu còn bỡ ngỡ với từng nét chữ, từng câu chào hỏi, giờ đã dần biết đọc, biết viết và tự tin hoàn thành bài học. Rất nhiều em từ các bản xa xôi như Huồi Pốc, Pà Ca hay Trường Sơn đã vững vàng bước lên cấp trung học cơ sở, mở ra những cơ hội học tập tiếp tục mà trước đây từng tưởng chừng xa vời. Niềm vui giản dị nhưng sâu sắc ấy trở thành động lực để cô kiên trì gắn bó, từng ngày gieo tri thức và ươm mầm niềm tin cho những mầm non nơi biên viễn.

giúp các em thêm yêu, thêm gắn bó với sự học giữa khó khăn, thiếu thốn. Ảnh: Thanh Quỳnh
.jpg)
Sau nhiều năm nỗ lực không mệt mỏi, năm 2009, cô Lê Thị Liễu vinh dự được Bộ trưởng Bộ Giáo dục trao tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Giáo dục, cùng nhiều Bằng khen, Giấy khen các cấp. Hạnh phúc hơn, cô gặp được người chồng hiện tại. Anh cũng là giáo viên tại mảnh đất Nậm Cắn. Họ cùng vun đắp một mái ấm nhỏ tại bản Nọong Dẻ và nuôi dạy hai con trưởng thành, tiếp tục viết câu chuyện tình yêu, sự gắn bó với mảnh đất biên viễn mà cô đã dành trọn cả đời để cống hiến.


.png)
Năm học này, niềm vui đã đến với các em Hà Khánh Ly (SN 2014) ở bản Đồng Mới, Lang Thị Kim Ngân (SN 2014) ở bản Tục Pang cùng nhiều học sinh khác tại Trường Tiểu học Đồng Văn (xã Thông Thụ) khi các em thi đậu vào cấp 2 với số điểm ấn tượng. Niềm vui ấy không chỉ là kết quả của nỗ lực cá nhân, mà còn là thành quả những tháng năm đồng hành thầm lặng của cô Phạm Thị Mai Quyên (SN 1977). Cô là người con của mảnh đất Diễn Châu lên cắm bản và có quãng thời gian gần 27 năm gắn bó với các điểm trường vùng cao với những phương pháp dạy học tiến bộ và đầy tính nhân văn.

Trong những năm gần đây, cô được nhà trường tin tưởng phân công chủ nhiệm lớp 5 – lớp cuối cấp bậc tiểu học. Đây là giai đoạn quan trọng, bởi các em phải hệ thống lại toàn bộ kiến thức, kỹ năng đã học ở các lớp dưới, đồng thời mở rộng thêm những nội dung mới. Tuy nhiên, với học sinh miền núi, đặc biệt ở vùng sát biên giới như xã Thông Thụ, khoảng thời gian ba tháng Hè, chuyển tiếp giữa các năm học cuối cấp, lại trở thành một “khoảng trống” lớn. Khái niệm “ôn luyện trong Hè” gần như xa lạ với các em. Nhiều học sinh phải theo bố mẹ lên rẫy, làm nương, một số ở nhà chăm em, giúp việc nhà, còn việc tiếp cận sách vở, báo chí, thậm chí ti vi là điều xa xỉ. Có những em bố mẹ đi làm ăn xa ở các thành phố lớn, quanh năm chỉ ở với ông bà đã già yếu, không biết chữ. Trong khi đó, trẻ em tiểu học vốn có đặc điểm “lâu nhớ, chóng quên”, nên chỉ sau ba tháng xa trường, phần lớn kiến thức đã học đều bị mai một.

Chính vì thế, mỗi đầu năm học, cô Quyên đều khảo sát, phân loại học sinh theo từng nhóm trình độ để áp dụng phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Ở miền núi, rào cản lớn nhất vẫn là ngôn ngữ. Ở nhà, các em nói tiếng mẹ đẻ, ít giao tiếp bằng tiếng phổ thông, vốn từ hạn chế, cơ hội tiếp xúc với môi trường bên ngoài rất ít. Nếu chỉ giảng dạy theo khuôn mẫu sách giáo khoa, học sinh nơi đây khó nắm bắt bài học.
Vì vậy, trong mỗi bài giảng, cô luôn cố gắng “đưa bài học vào đời sống”, gắn kiến thức với những hình ảnh, sự vật quen thuộc quanh các em: nương ngô, bờ suối, con trâu, cái chòi rẫy… Khi các em được nhìn thấy, chạm vào, nghe bằng chính trải nghiệm của mình, bài học trở nên sinh động, gần gũi và dễ ghi nhớ.
Sau mỗi tiết dạy, cô bố trí thời gian riêng cho từng nhóm. Chẳng hạn, sau khi truyền đạt kiến thức mới, phần thực hành được giao cho nhóm học sinh khá, giỏi thảo luận và hoàn thành nhiệm vụ, còn cô tập trung hướng dẫn trực tiếp nhóm học sinh yếu hơn, kèm theo từng bước để các em nắm chắc kiến thức. Nhờ vậy, nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, tự tin hơn, đạt được kết quả học tập tốt và tiếp tục hành trình học tập ở những bậc học cao hơn, mở ra cơ hội thay đổi tương lai cho chính mình.
Nhìn lại hành trình gần 30 năm gắn bó với những mái trường vùng cao, cô trải lòng; hầu như lần nào về quê, bạn bè, người thân ai cũng hỏi cô những câu hỏi quen thuộc: “Chuyển về đồng bằng đi, ở trên đó khổ cực răng mà chịu được ?”. Thật ra, họ nói vậy cũng phải thôi. Bởi ai chứng kiến cảnh tôi sống một mình giữa vùng núi xa xôi, heo hút, đường đi quanh co, sáng mưa, chiều nắng, cơ sở vật chất thiếu thốn, đều thấy thương. Tôi hiểu, họ đang lo cho tôi từ tình thương, còn tôi thì đã tìm thấy hạnh phúc riêng trong những điều giản dị nơi đây.
Ngày đầu đặt chân lên miền núi, tôi từng nghĩ chỉ công tác ít năm rồi sẽ xin chuyển về quê. Một cô gái vùng biển, quen với gió Lào, cát trắng, với nhịp sống sôi động, bạn bè đông vui - thật khó hình dung cảnh mình sống giữa núi rừng hoang sơ, xa nhà, xa tất cả. Nhưng rồi, chính những ngày đứng trên bục giảng nhìn học trò chăm chú đánh vần từng chữ, chính nụ cười trong veo của các em khi biết viết trọn một câu, hay ánh mắt ngập ngừng mà đầy biết ơn của phụ huynh nghèo mỗi khi cô giáo đến tận nhà vận động con em đến lớp… tất cả đã khiến tôi không nỡ rời đi.

.jpg)

Tôi dần nhận ra, miền núi không chỉ có gian khó, mà còn có sự chân thành, ấm áp của tình người. Mỗi con đường, mái trường, mỗi tiếng gọi “cô ơi” đều đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mình. Giờ đây, tôi xem nơi này là quê hương thứ hai của mình. Nếu có cơ hội được lựa chọn giữa trở về hay ở lại, tôi vẫn sẽ chọn ở lại, để tiếp tục gieo con chữ, để thấy niềm tin và tri thức nảy mầm từ chính mảnh đất còn nhiều thiệt thòi này…
.png)
Qua nhiều năm gắn bó với học sinh miền núi, cô giáo Phạm Thị Mai Quyên đã nhiều lần được nhận Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh vì thành tích xuất sắc trong công tác giáo dục, nhiều năm đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu biểu. Năm 2025, cô tiếp tục được vinh dự là một trong hai đại diện của Nghệ An được tuyên dương tại chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô 2025" do Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tập đoàn Thiên Long tổ chức.

Những năm tháng gắn bó với vùng cao biên viễn của cô Phạm Thị Mai Quyên, cô Lê Thị Liễu và nhiều giáo viên cắm bản khác ở vùng cao không chỉ là hành trình gieo chữ, mà còn mang đến niềm tin, hy vọng cho những học trò nơi gian khó. Mỗi bằng khen, danh hiệu hay lời tuyên dương chỉ là phần thưởng nhỏ; điều quý giá nhất là ánh mắt háo hức, nụ cười rạng rỡ và tương lai của học trò. Chính tình yêu đó, đã giữ họ ở lại với bản làng để viết nên câu chuyện đẹp về giáo dục vùng cao.
------------------o0o------------------
(Còn nữa)



