Xung đột quân sự Nga – Ukraine, một sự kiện làm chấn động toàn cầu trong một năm qua, đã tác động không nhỏ tới cấu trúc an ninh khu vực châu Âu, thậm chí cả cục diện chính trị thế giới. Mọi nỗ lực ngoại giao, đàm phán đối thoại được xem là giải pháp tối ưu nhất hiện nay để có thể chấm dứt chiến sự, hạ nhiệt và tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng. Thế nhưng, mọi cánh cửa ngoại giao lại đang dần khép lại. Một cuộc xung đột làm nảy sinh ra nhiều cuộc chiến khác. Một cuộc xung đột sẽ không có ai chiến thắng, và cũng khó tìm được hòa bình.
Cuộc xung đột Nga – Ukraine không phải bỗng dưng xảy ra, mà những mâu thuẫn, bất đồng sâu sắc giữa hai quốc gia đã bắt đầu từ sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Sự bất đồng đó càng bị khoét sâu, khi vào năm 2014 Nga sáp nhập bán đảo Crimea, tiếp theo là một số bất ổn ở khu vực Donbass – phía Đông của Ukraine, nơi có hai nước Cộng hòa tự xưng là Donetsk (DPR) và Lugansk (LPR).
Tình hình trở nên đặc biệt căng thẳng vào tháng 12/2021, khi Nga gửi đến Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) bản đề nghị an ninh gồm 8 điểm, trong đó nêu rõ các quan ngại về an ninh, được xem như những “lằn ranh đỏ” của Moskva. Đó là:
– Ukraine không thể trở thành thành viên của NATO.
– NATO không tiếp tục mở rộng về phía Đông.
– NATO quay trở lại điểm xuất phát năm 1997, nghĩa là trước khi mở rộng sang phía Đông, kết nạp các nước Đông Âu, và 3 nước Cộng hòa Baltic làm thành viên mới – động thái mà Nga cho là đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và lợi ích chiến lược của Nga.
Sau khoảng 1,5 tháng, phản hồi lại Nga, Mỹ và NATO đưa ra các đề nghị không được đáp ứng thỏa đáng. Theo Mỹ và NATO, tất cả các quốc gia có chủ quyền như Ukraine nếu có yêu cầu về an ninh, có thể làm đơn xin gia nhập không chỉ NATO, mà bất kỳ tổ chức nào. Bản phản hồi cũng nhấn mạnh, việc Nga yêu cầu NATO quay trở lại điểm xuất phát năm 1997 là không hợp lý. Điều này khiến Nga cho rằng, Mỹ và NATO không hề xem trọng những đề nghị chính đáng của mình.
Cuối tháng 11/2021, Nga bắt đầu triển khai lực lượng quân sự lớn tới khu vực biên giới với Ukraine, khiến tình hình nóng lên hơn bao giờ hết. Ngày 22/2/2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã công bố quyết định công nhận độc lập của hai nước DPR và LPR, đồng thời điều quân đến đây để thực hiện “nhiệm vụ gìn giữ hòa bình”.
Và ngày 24/2/2022, Tổng thống Nga Putin tuyên bố mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở miền Đông Ukraine, nhằm đáp lại lời đề nghị hỗ trợ bảo đảm an ninh của lãnh đạo hai nước DPR và LPR.
Có thể thấy, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc xung đột hiện nay là do phương Tây và Ukraine không lắng nghe và đáp ứng những “lằn ranh đỏ” của Nga về an ninh quốc gia, nhất là lập trường của 2 bên quá khác biệt về vấn đề Ukraine.
Tính toán và mục tiêu của Nga thông qua chiến dịch quân sự tại Ukraine, có thể lý giải như sau: Tổng thống Putin luôn khẳng định trước đông đảo toàn thể người dân Nga và thế giới rằng, Ukraine không chỉ là nước láng giềng, mà còn là một phần không thể tách rời của lịch sử, văn hóa và không gian tinh thần Nga. Đứng ở góc độ lịch sử, các quốc gia hiện nay gồm Nga, Belarus và Ukraine đều có nguồn gốc hình thành từ Nhà nước cổ Kievan Rus. Đây từng là một đại công quốc giàu có, thịnh vượng, hùng mạnh, và lừng lẫy trong suốt một quãng thời gian dài của lịch sử thế giới, tồn tại trong khoảng 500 năm, từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII. Trung tâm kinh tế chính trị của nhà nước này đều được đặt tại vùng đất Thánh – Kiev, Thủ đô của Ukraine.
Về góc độ chính trị, an ninh, quân sự, Tổng thống Nga Putin cho rằng, kể từ khi Liên Xô sụp đổ, tập thể phương Tây do Mỹ lãnh đạo luôn đối xử không công bằng với Nga dưới mọi hình thức, từ việc mang tư tưởng “bài Nga”, không đặt Nga ở vị trí quan trọng trong cấu trúc an ninh châu Âu, đến việc mở rộng NATO đe dọa không gian phát triển, an ninh của Nga, cấm vận kinh tế Nga… Điều đáng nói, là cố gắng xóa bỏ nhận thức của châu Âu về công lao của Liên Xô trong công cuộc giải phóng các dân tộc khỏi phát xít trong Thế chiến II.
Chiến dịch quân sự đặc biệt này có thể khiến uy tín của Tổng thống Putin bị sụt giảm trên trường quốc tế, và hiện tại Nga đang hứng chịu cơn bão các lệnh trừng phạt mạnh mẽ chưa từng có, chưa có dấu hiệu dừng lại từ tập thể phương Tây. Tuy nhiên, dường như Nga đã chuẩn bị sẵn sàng tâm lý và lên kế hoạch sẵn cho các phương án ứng phó. Cho đến nay, Tổng thống Putin và các cộng sự vẫn thường xuyên khẳng định, Nga sẽ thực hiện đến cùng mục tiêu của chiến dịch.
Mục tiêu sâu xa hơn của cuộc xung đột là đưa Ukraine trở lại phạm vi ảnh hưởng nhằm tạo sức mạnh đối trọng với NATO, tái thiết lập vùng đệm an ninh giữa Nga và phương Tây, như chiến lược trước đây Liên Xô từng theo đuổi – thiết kế lại bản đồ an ninh châu Âu, và đưa Nga trở lại bàn cờ của những siêu cường. Đồng thời, Moskva muốn điều chỉnh lại những hệ quả an ninh sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991 – một sự kiện mà Tổng thống Putin miêu tả là “bi kịch địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX”.
Về phía Mỹ và phương Tây luôn xem Nga là mối đe dọa an ninh số một, và luôn muốn dập tắt những hy vọng của Nga trong việc phục hồi vị thế cường quốc. Xét tổng thể, Mỹ có mục tiêu chiến lược không đổi là duy trì vai trò lãnh đạo toàn cầu, và một trật tự thế giới đơn cực có lợi cho Mỹ, kiềm chế và không để Nga nổi lên thách thức vị thế đó, đặc biệt là khi Nga đang cố gắng tạo ra và sắp xếp bản đồ chính trị toàn cầu thành thế giới đa cực.
Cuộc chiến năng lượng là một trong những cuộc chiến đầy cam go, nhiều tranh cãi nhất. Nó không chỉ khiến mối quan hệ giữa Nga và phương Tây bị “rơi xuống vực đáy”, mà nó còn khiến những quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (EU) lục đục, mâu thuẫn nội bộ gay gắt. Nước Nga quá hùng mạnh, với tư cách là nhà cung cấp năng lượng toàn cầu quan trọng, nên khó có thể bị phớt lờ. Đó cũng là một lý do, vì sao các lệnh trừng phạt của phương Tây gần như không thể “knock out” nền kinh tế của Nga.
Dù EU và Nhóm các quốc gia phát triển hàng đầu (G7) đang nỗ lực ngăn chặn Nga thu được lợi nhuận khổng lồ từ việc bán khí đốt và dầu, song Moskva đáp trả bằng các đòn tương ứng, từ việc bán khí đốt và dầu bằng đồng Rúp, và chỉ bán cho các quốc gia thân thiện, đến việc khóa van vô thời hạn đường ống dẫn khí Dòng chảy phương Bắc 1 – huyết mạch chính cung cấp khí đốt cho gần như toàn bộ châu Âu, trong lúc dự án Dòng chảy phương Bắc 2 không được cấp phép hoạt động, dù đã hoàn thành. Động thái của Nga được xem là một cuộc phản công kinh tế vào EU.
Bản đồ năng lượng thế giới cũng đã được vẽ lại. Xu hướng dịch chuyển thị trường từ Tây sang Đông. Nếu như, trước đây châu Âu là khách hàng hàng đầu của Nga, thì nay với sự nỗ lực giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung từ quốc gia này, châu Á đã trở thành đối tác lớn nhất của Moskva.
Trước giai đoạn khi xảy ra xung đột Nga – Ukraine, tức vào năm 2021, EU đã nhập khẩu 155 tỷ mét khối khí tự nhiên từ Nga, bao gồm 140 tỷ mét khối khí bằng đường ống dẫn khí, và khoảng 15 tỷ mét khối khí dưới dạng khí tự nhiên hóa lỏng LNG, tương đương với khoảng 45% tổng sản lượng nhập khẩu và gần 40% lượng khí đốt tiêu thụ của các quốc gia thành viên trong năm đó.
Đây được đánh giá như một thất bại của Gazprom. Một thất bại như vậy không thể không ảnh hưởng đến khối lượng sản xuất. Được biết, năm ngoái, tập đoàn đã giảm 20% chỉ còn 412,6 tỷ mét khối khí. Trên bình diện khác, theo Economist công bố dữ liệu cho thấy, Nga đạt được mức thặng dư tài khoản vãng lai kỷ lục là 220 tỷ USD, gấp đôi so với 1 năm trước đó. Kỳ tích này xảy ra trong bối cảnh nhiều biến động nghiêm trọng về chi phí tài nguyên năng lượng, cũng như nhu cầu gia tăng. Và nó đã thực sự đã san bằng tất cả các nỗ lực trừng phạt của tập thể phương Tây.
Các nhà cung cấp khí tự nhiên hóa lỏng LNG của Mỹ đã đột ngột leo vào thị trường ngách của Nga. Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, tỷ lệ khí đốt của Nga trên các sàn giao dịch châu Âu vào năm 2023 có thể giảm thêm một quý nữa. Điều đó có nghĩa là tỷ trọng của Mỹ sẽ gấp đôi tỷ trọng của Nga. Đây không hẳn là một thảm họa với Nga. Chỉ đơn giản là Nga đang đánh mất thị trường bán hàng lịch sử của mình, một kênh ổn định để bơm ngoại hối và một con át chủ bài quan trọng trong địa chính trị. Theo đó, người Mỹ nhận được tất cả những điều này thay vì Nga, nghĩa là hoạt động của Washington nhằm phân phối và định hình lại thị trường tài nguyên năng lượng thế giới. Không còn nghi ngờ gì nữa, ảnh hưởng của Mỹ hiện đang diễn ra khá thành công. Các khoản đầu tư khổng lồ của Mỹ cùng khủng hoảng năng lượng toàn cầu đã giúp nước này bán được lượng lớn khí hóa lỏng trong năm 2022, và trở thành nước xuất khẩu khí hóa lỏng lớn nhất thế giới.
Được xây dựng một cách tỉ mỉ trong nhiều thập kỷ để trở thành nhà cung cấp, và thị trường thân thiết nhất, thế nhưng hoạt động thương mại khí đốt của Nga và châu Âu giờ đã hoàn toàn đứt gãy, và khó có thể phục hồi, kể cả khi xung đột quân sự chấm dứt. Mất thị trường châu Âu, Nga dịch chuyển từ Tây sang Đông. Châu Á đã lần đầu tiên vượt qua châu Âu để trở thành khách mua dầu từ Nga lớn nhất, kể từ hồi tháng 4/2022. Các nhà nhập khẩu dầu lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Hai nền kinh tế lớn của châu Á đã khai thác hàng triệu thùng dầu từ Nga để tận dụng các khoản ưu đãi lớn đối với dòng chảy hàng hóa này. Bên cạnh sự hấp dẫn của giá dầu rẻ hơn từ Nga, cả Bắc Kinh và New Delhi đều có quan hệ chặt chẽ với Moskva.
Hiện tại, Nga đã ký kết 2 thỏa thuận với Trung Quốc về việc cung cấp khí đốt tự nhiên. Việc đầu tiên đang thực hiện thông qua dự án đường ống “Sức mạnh Siberia”, có công suất 38 tỷ mét khối khí. Theo phía Nga, đường ống dẫn khí đạt con số tối đa vào khoảng năm 2025.
Một bộ phận giới quan sát bày tỏ lo ngại rằng, mối quan hệ thương mại khí đốt giữa Nga với Trung Quốc – nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới, có thể sinh lợi như hàng thập kỷ cung cấp khí đốt cho châu Âu hay không, vẫn còn phải xem. Các cuộc đàm phán với Trung Quốc về việc bán khí đốt mới dự kiến sẽ phức tạp, nhất là khi Trung Quốc dự kiến sẽ không cần thêm khí đốt cho đến sau năm 2030. Trong năm 2023, Nga nên mong đợi các cuộc đàm phán thực chất nhất trong khuôn khổ dự án Sức mạnh Siberia-2 với công suất 50 tỷ mét khối khí, và dự án bơm khí đốt qua lãnh thổ Mông Cổ cũng sẽ được mở van trở lại. Vào cuối năm 2021, cơ quan Montsame Mông Cổ, đã báo cáo rằng, nghiên cứu khả thi cho dự án đường ống dẫn khí đốt Soyuz Vostok là 70%.
Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ký Sắc lệnh cấm xuất khẩu dầu sang các quốc gia áp giá trần với dầu Nga. Sắc lệnh có hiệu lực từ ngày 1/2/2023 và áp dụng cho đến ngày 1/7/2023. Sắc lệnh còn có một điều khoản cho phép Tổng thống Putin hủy lệnh cấm trong trường hợp đặc biệt. Bộ Tài chính Mỹ đồng thời công bố một thông cáo rằng, dầu thô của Nga đã được xử lý ở nước ngoài không bị trừng phạt, và sẽ không phải chịu cái gọi là giá trần.
Mọi trò chơi lớn đang diễn ra. Hầu hết các sự kiện diễn ra không phải ở sân khấu phía trước, mà là đằng sau hậu trường của chính trị thế giới. Trong trường hợp này, kết quả sẽ trở nên rõ ràng sau một vài năm. Và những kết quả này sẽ quyết định diện mạo mới của thế giới. Nó sẽ được quyết định bởi các siêu cường trên thế giới như: Nga, Mỹ và Trung Quốc. Và dường như châu Âu đã Mỹ bị đẩy ra khỏi “con tàu” năng lượng này.
Cuộc chiến đầy giằng co đã khiến giá năng lượng toàn cầu tăng phi mã, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình lạm phát… Cuộc chiến lại leo thang đáng kể trong thời gian gần đây, khi các nước phương Tây phối hợp hạn chế giá dầu và khí đốt xuất khẩu của Nga. G7 đã kêu gọi thiết lập một hệ thống chỉ cho phép bán dầu của Nga với giá thấp hơn thị trường. Mục đích là để hạn chế thu nhập của Nga từ việc bán nhiên liệu hóa thạch, vốn duy trì kinh phí cho chiến dịch quân sự ở Ukraine.
Cuộc xung đột ở Ukraine đã khiến Nga bị phương Tây quay lưng, với dồn dập cơn bão các lệnh trừng phạt và hạn chế xuất khẩu chưa từng có, nhằm cô lập nước này khỏi nền kinh tế toàn cầu, và cắt nguồn thu của Moskva dành cho cuộc chiến. Câu hỏi vẫn luôn hiện hữu là, liệu các biện pháp trừng phạt mạnh tay của phương Tây có thực sự hiệu quả không, khi sau 1 năm, Nga chưa có dấu hiệu chùn bước, và quyết liệt đạt được mục đích đến cùng. Bên cạnh đó, liệu thực sự Nga có bị cô lập hoàn toàn với phần còn lại của thế giới không, khi bên cạnh Moskva, còn có những “chiếc phao” đắc lực.
Tổng thống Nga Vladimir Putin hồi giữa tháng 1 công bố bức tranh tươi sáng về kinh tế nước này dựa trên dữ liệu mới của Chính phủ. Theo đó, động lực thực sự của nền kinh tế, hóa ra tốt hơn nhiều dự báo của các chuyên gia. Dẫn dữ liệu từ Bộ Phát triển kinh tế, Tổng thống Putin cho biết, GDP của Nga đã giảm từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2022, nhưng mức giảm chỉ khoảng 2,1%, trong khi một số chuyên gia của Nga lẫn nước ngoài đã dự đoán mức giảm 10-20%.
Theo Tổng thống Putin, các tính toán ban đầu cho thấy, nền kinh tế Nga đã giảm 2,5% trong cả năm 2022, tốt hơn đáng kể so với mức giảm 33% của Ukraine.
Kim ngạch thương mại của Nga cũng đã dần tăng trở lại, xấp xỉ mức trước khi xung đột với Ukraine nổ ra. Một phần lý do là nhiều quốc gia không sẵn sàng từ bỏ quan hệ với Nga. Nghiên cứu gần đây cho thấy, chưa tới 9% các công ty ở EU và G7 loại bỏ một trong các chi nhánh của họ ở Nga. Các công ty theo dõi hàng hải cũng ghi nhận sự gia tăng các hoạt động vận chuyển bằng tàu thuyền – đây là những phương tiện có thể giúp Nga xuất khẩu năng lượng và tránh các hạn chế của phương Tây.
Ngày 30/1/2023, Quỹ Tiền tệ quốc tế cho biết, dự kiến nền kinh tế Nga sẽ tăng trưởng 0,3% trong năm nay, một sự trái ngược đáng kể, so với dự đoán giảm 2,3% trước đó. Quỹ Tiền tệ quốc tế cũng cho biết, dự kiến xuất khẩu dầu thô Nga vẫn tương đối mạnh, ngay cả trong điều kiện bị áp giá trần và thương mại của Nga tiếp tục chuyển hướng sang quốc gia thân thiện.
Đối với nhiều người nước ngoài ở Nga, những con số này thực sự gây bất ngờ. Quy mô đòn trừng phạt của tập thể phương Tây nhắm vào Nga từ ngày 24/2/2022 là rất lớn, chưa từng thấy đối với bất kỳ quốc gia nào. Nhưng dữ liệu mà Nga công bố, cho thấy hiệu quả của các đòn trừng phạt thấp hơn kỳ vọng.
Dù dữ liệu của Nga có thể còn một số sai sót, song nhiều người nước ngoài sống ở Nga hoặc đến Nga du lịch gần đây cho biết, cuộc sống ở nước này vẫn diễn ra với nhịp điệu bình thường, ngay cả khi McDonald’s không còn, và những thương hiệu của phương Tây được thay thế bằng thương hiệu nội địa.
Giới quan sát kinh tế của phương Tây cũng thừa nhận rằng, nền kinh tế Nga đang chứng kiến sự gián đoạn, nhưng nó nhẹ nhàng hơn cả những gì xảy ra hồi đầu đại dịch. Không có sự thiếu hụt, các kệ siêu thị luôn đầy ắp đồ.
Vậy nền kinh tế Nga đã và đang sống sót vượt qua mọi nghịch cảnh, thậm chí tăng trưởng nhờ đòn bẩy nào? Đó chính là sự tăng vọt kim ngạch thương mại của các nước láng giềng và đối tác của Nga. Đó là những quốc gia như thế nào?
Đứng đầu trong danh sách này, không ai khác, chính là Trung Quốc. Vị trí này của Trung Quốc được lý giải cả về mặt chính trị, cả về mặt kinh tế. Còn nhớ, trong năm 2022, trong những cuộc gặp chính thức và không chính thức, trực tuyến và trực tiếp, các nhà lãnh đạo cấp cao của Nga và Trung Quốc thường xuyên nhấn mạnh đến “tình bạn không giới hạn”, “đối tác chiến lược” của cả hai bên.
Theo một báo cáo mới, thương mại giữa Nga và Trung Quốc đã bùng nổ trong năm 2022, trở thành huyết mạch của nền kinh tế Nga, đồng thời cho thấy giới hạn của các biện pháp trừng phạt mà phương Tây áp đặt. Theo báo cáo của Tổ chức phi chính phủ Free Russia Foundation có trụ sở tại Washington, Nga đã tăng cường nhập khẩu các công nghệ quan trọng cho xung đột ở Ukraine, bao gồm cả chất bán dẫn và vi mạch từ Trung Quốc.
Việc Trung Quốc tăng cường nhập khẩu hàng hóa từ Nga, nhất là mặt hàng năng lượng, đã bù lại nhiều hơn so với sự sụt giảm nguồn cung cấp của Nga cho thị trường châu Âu. Điều này có nghĩa là, khi Mỹ, EU, Anh đều thu hẹp giao dịch với Nga, Trung Quốc đã nổi lên, trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất của Nga. Điểm nhấn trong năm 2022 là Nga và Trung Quốc đã thúc đẩy phát triển mạnh đường ống dẫn khí đốt “Sức mạnh Siberia” – một dự án trị giá 55 tỷ USD, và việc Moskva tăng cường sử dụng đồng Nhân dân tệ.
Không chỉ là đối tác trong các lĩnh vực năng lượng, các mặt hàng dân dụng, Trung Quốc còn trở thành nhà cung cấp một số công nghệ chủ chốt có thể phục vụ mục đích quân sự cho Nga. Theo các dữ liệu, Bắc Kinh đã bán các máy bay không người lái UAV cho Moskva, với tổng trị giá 3,3 triệu USD trong năm 2022. Cùng với Trung Quốc, UAV tiếp tục được chuyển giao cho Nga từ các quốc gia và vùng lãnh thổ như: Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất, Hong Kong, và Singapore, trong tháng 11 và 12/2022.
Hứng chịu những làn sóng trừng phạt liên tiếp từ phương Tây, Nga gặp nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn cung chất bán dẫn và vi mạch. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc một lần nữa lại nổi lên là nhà cung cấp chính. Điều đó đã giúp Nga tăng tổng lượng nhập khẩu chip lên 2,45 tỷ USD vào năm 2022, so với 1,82 tỷ USD vào năm 2021.
Xuất khẩu nói chung của Trung Quốc vào Nga ở mức cao kỷ lục trong tháng 12/2022, giúp bù đắp những lỗ hổng trong thương mại Nga – châu Âu.
Tiếp theo trong danh sách các đối tác thương mại của Nga, chính là Thổ Nhĩ Kỳ. Nước này đã tăng cường nhập khẩu dầu thô từ Nga, và hợp tác với Moskva để xây dựng một trung tâm khí tự nhiên và nhà máy điện hạt nhân. Động thái diễn ra giữa bối cảnh phương Tây đang cố gắng hạn chế doanh thu của Nga từ việc xuất khẩu năng lượng.
Nói cách khác, năng lượng là trung tâm trong mối quan hệ phát triển giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ, khi dầu mỏ và khí đốt giá rẻ từ Moskva giúp Ankara hạn chế sức ép lên nền kinh tế. Trong năm 2022, nhập khẩu dầu thô từ Nga của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng gấp đôi sau khi xung đột ở Ukraine nổ ra. Ankara nhập khẩu gần 2,5 triệu thùng dầu từ tháng 3/2022, so với 1,3 triệu thùng trong cả năm 2021. Dầu thô Nga chiếm khoảng 40% nhập khẩu dầu thô bằng đường biển của Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2022, tăng gần gấp đôi so với con số 21% trong năm 2021.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng cường cung cấp hàng hóa cho Nga để Moskva không cần nhập khẩu từ châu Âu. Những loại hàng hóa này rất đa dạng từ vải vóc, hoa quả, rau củ cho tới các sản phẩm công nghiệp. Theo số liệu từ Viện tài chính quốc tế, xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tới Nga đã tăng 2,3 tỷ USD từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2022, so với cùng kỳ năm 2021.
Một số mặt hàng xuất khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Nga tăng lên là do sự thay đổi tuyến đường trao đổi giữa EU và Nga. Hàng trăm công ty Nga đã dịch chuyển sang Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc thành lập các trụ sở ở nước này để tránh các biện pháp hạn chế từ EU, hoặc các quốc gia khác.
Thổ Nhĩ Kỳ không tham gia vào bất kỳ lệnh cấm vận nào liên quan đến năng lượng Nga, do đó nước này có thể mua dầu mỏ Nga với giá được giảm sâu. Những lợi ích này thậm chí có thể tăng gấp đôi. Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia có khả năng lọc dầu lớn, mua số lượng kỷ lục dầu thô Nga rồi lọc trên chính bờ biển của nước này, sau đó dán nhãn hợp pháp các sản phẩm hoàn thiện là có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ, và bán ra theo giá thị trường toàn cầu. Cùng lúc đó, Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tục mua dầu diesel được giảm giá từ Nga để sử dụng trong nước.
Nhập khẩu than đá được giảm giá từ Nga của Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng vọt. Từ tháng 8 – 11/2022, trong khi lệnh cấm than đá Nga của EU có hiệu lực, thì Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu hàng tháng trung bình 2,1 triệu tấn than đá từ Nga. Và Ankara trở thành khách hàng lớn nhất mua than đá của Moskva.
Bên cạnh Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, có những chiếc phao cứu sinh mới đang hỗ trợ nền kinh tế Nga như: Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan. Những nước này đang tăng cường cung cấp cho Nga nhiều sản phẩm mà phương Tây cản trở vận chuyển sang nước này. Còn nhớ trước đó, truyền thông phương Tây thường xuyên đưa tin, người dân Nga gặp khó khăn trong việc mua các loại hàng hóa hoặc phải mua với giá cao, từ sữa, đồ gia dụng cho tới phần mềm máy tính và thuốc. Silverado Policy Accelerator, một tổ chức phi lợi nhuận ở Washington đưa ra phân tích rằng, ước tính giá trị nhập khẩu của Nga từ phần còn lại của thế giới đã vượt mức trước chiến tranh vào tháng 9/2022.
Tất cả những xu hướng trên đã phản ánh một điều rằng, các chuỗi cung ứng dịch chuyển như thế nào để tiếp tục cung cấp hàng hóa cho Nga.
Khi áp đặt hàng loạt các lệnh trừng phạt mạnh mẽ lên Nga, tập thể phương Tây tin tưởng rằng, với việc “mưa dầm thấm lâu”, nền kinh tế của Nga sẽ kiệt quệ và bị cô lập hoàn toàn. Thực tế đã chứng minh, nền kinh tế Nga trong năm 2022 không tồi tệ như dự đoán. Xu hướng này sẽ tiếp tục trong năm 2023 này như thế nào? Nhanh hay chậm? Quỹ đạo có thay đổi không? Điều này xảy ra với tốc độ như thế nào sẽ phụ thuộc vào mức độ kiên trì của phương Tây trong thực thi các lệnh trừng phạt. Câu trả lời sẽ do thời gian quyết định.
Chiến trường là nơi rõ nhất để nhìn thấy được tính hiệu quả của vũ khí. Cuộc xung đột Ukraine cũng không ngoại lệ. Hơn thế, đây có thể coi là tiền đề để xác định những loại vũ khí nào sẽ được sử dụng rộng rãi trong các trận chiến trong tương lai. Ukraine nhiều lần thừa nhận nước này đã trở thành bãi thử vũ khí cho các nhà sản xuất phương Tây, Nga cũng đã đưa tới nước láng giềng những khí tài hàng đầu.
Cho đến nay, Mỹ đã viện trợ quân sự cho Ukraine lên tới 26,7 tỷ USD, trong đó có gói viện trợ mới nhất vào ngày 19/1 với trị giá 2,5 tỷ USD. Gói viện trợ này bao gồm 59 xe thiết giáp Bradley, 90 xe thiết giáp Stryker, hệ thống phòng không Avenger, các loại vũ khí lớn và nhỏ.
Cụm từ “cạn kiệt vũ khí” trở thành đề tài được khai thác triệt để của truyền thông. Vậy nó thực sự là “cơn đau đầu” của Nga hay của Mỹ và phương Tây?
Kể từ khi xung đột nổ ra, phương Tây luôn cam kết “không để Ukraine một mình”, liên tục cung cấp vũ khí cho Ukraine. Tuy nhiên, chiến sự đã đi qua 1 năm, dù Ukraine liên tục thúc giục phương Tây cung cấp những vũ khí hiện đại nhất, thì sự chần chừ, e dè của phương Tây khiến Kiev sốt ruột. Dù Ukraine đã ra sức miệt mài chứng minh khả năng thắng Nga, trong đó những cuộc phản công, giành lại được một số vùng lãnh thổ nhỏ, với Kiev đó cũng là những chiến thắng mang tính biểu tượng.
Khi quân đội Ukraine bị lực lượng pháo binh áp đảo của Nga vùi dập ở chiến trường miền Đông, hứng chịu thương vong nặng nề và liên tục phải rút lui, thì ủng hộ của phương Tây vì thế dường như cũng giảm bớt sự nhiệt tình. Điều này bắt nguồn từ lý do, phương Tây đang nảy sinh hoài nghi rằng, Ukraine khó giành được thắng lợi trong cuộc chiến đầy tiêu hao, và những vũ khí hiện đại mà họ viện trợ khó có thể giúp Kiev lật ngược tình thế.
Dù vậy, Ukraine vẫn kiên trì phát thông điệp với phương Tây rằng, họ có thể chiến thắng, chiến lược của họ vẫn phát huy hiệu quả, với điều kiện dòng chảy vũ khí hiện đại tới nước này không bị gián đoạn. Không ai có thể nói chắc như đinh đóng cột rằng, Ukraine có thể giành thắng lợi trước quân đội Nga vượt trội cả về hỏa lực lẫn nhân lực hay không. Những lời thỉnh cầu vũ khí của Ukraine được đưa ra thường xuyên đến nỗi một số nước phương Tây bắt đầu cảm thấy phiền toái, nghi ngờ tính thực tế trong những tuyên bố “thắng Nga” từ Kiev.
Có thể thấy, Kiev liên tục đưa ra những thông điệp lạc quan, song dường như phương Tây vẫn không mấy quan tâm. Giới phân tích quân sự và quan chức phương Tây còn cho rằng, quá sớm để đoán định cục diện chiến trường Ukraine tương lai. Họ cũng thận trọng cảnh báo không nên đặt quá nhiều hy vọng vào bất kỳ loại vũ khí cụ thể nào trước một chiến tuyến trải dài hàng trăm km, từ Kharkov ở phía Bắc đến Mikolaev phía Nam, với rất nhiều yếu tố bất ngờ. Trong khi đó, người trong cuộc chiến thì chia sẻ rằng, những lần tấn công mới của Ukraine đạt được những gì mà trước đây không thể có. Nhưng khó có đột phá nào ở phía trước, không có thuốc chữa bách bệnh, không có cây đũa thần nào giúp Kiev chiến thắng ngay lập tức vào ngày mai.
Trong lịch sử 200 năm qua, trung bình các cuộc chiến tranh chỉ kéo dài hơn 3 tháng. Đến nay, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã kéo dài một năm. Đàm phán hay không đàm phán là vấn đề được nhắc tới nhiều. Vậy nên, không đo đếm được hết số lần các bên liên quan và cả không liên quan kêu gọi hoặc đưa ra đề nghị cần đi đến bàn đàm phán. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, cánh cửa đàm phán này càng đóng chặt.
Các vấn đề quan trọng về kiểm soát lãnh thổ và đảm bảo an ninh là thách thức lớn nhất để làm trung gian hoà giải, và vẫn có khả năng cả Ukraine và Nga sẽ né tránh các nỗ lực hoà giải như vậy,
Nếu chúng ta xem cuộc xung đột ở Ukraine là một con lắc, thì nó đã xoay tối đa về phía Ukraine-Mỹ từ tháng 9 đến tháng 11/2022, sau các sự kiện ở vùng Kharkov và Kherson. Vấn đề đối với phương Tây là mỗi tuần mới, con lắc lại dao động theo hướng có lợi cho Nga. Đầu tiên, quân đội ở được bổ sung với lệnh tổng động viên một phần. Thứ hai, năng lực mới của ngành công nghiệp Nga đang được đưa vào hoạt động. Thứ ba, kế hoạch phá hủy cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine đang được thực hiện với tốc độ chóng mặt. Theo đó, thời gian càng trôi đi, khả năng quân sự và uy thế tâm lý của Kiev sẽ ngày càng suy yếu đi.
Cựu Thủ tướng Israel Naftali Bennett – người từng đóng vai trò trung gian hòa giải giữa Moskva và Kiev, cho biết, cuộc đối thoại hòa bình giữa Moskva và Kiev vào mùa Xuân năm 2022 đã bị gián đoạn theo sáng kiến của phương Tây. Ông nói thêm rằng, cả hai bên đều bày tỏ sẵn sàng nhượng bộ nghiêm túc, và cơ hội đàm phán thành công lúc đó là “không tồi”. Đặc biệt, theo ông Bennett, Ukraine lúc đó đã từ bỏ ý định gia nhập NATO.
Giới phân tích cho rằng, lời thú nhận này của cựu thủ tướng Israel thể hiện sự toan tính trong chính sách của Mỹ và EU. Các chuyên gia tin rằng, phương Tây mặc dù luôn tuyên bố, kêu gọi các bên đạt được hòa bình, song lại thực sự quan tâm đến việc kéo dài xung đột càng lâu càng tốt, để làm suy yếu Nga.
Mỹ đang cố gắng tận dụng tối đa cuộc xung đột đang diễn ra. Đặc biệt để chuyển số lượng công ty và thu hút đầu tư từ châu Âu sang Mỹ bằng các kích hoạt sự hỗn loạn ở thế giới cũ, cũng như làm trầm trọng thêm quan hệ Nga-châu Âu. Nói cách khác, Mỹ kiếm tiền từ cuộc xung đột với chi phí của châu Âu và Ukraine. Và cuộc xung đột Ukraine là một cuộc chiến ủy nhiệm của Mỹ.
Và ở đây, vị trí của chính quyền Tổng thống Joe Biden trùng khớp với lợi ích của Tổng thống Ukraine Zelensky – người không cần các thỏa thuận hòa bình. Do đó, Tổng thống Zelensky, cũng giống như chính quyền Mỹ, sẵn sàng chiến đấu ở Ukrainecho đến khi đất nước này bị đánh bại và tan rã hoàn toàn.
Tại các quốc gia thành viên EU giàu có, tình hình kinh tế – xã hội trở nên tồi tệ hơn. Quá trình phi công nghiệp hóa đã bắt đầu, và kho vũ khí quân sự đang cạn kiệt. Họ nhận thức được rằng, không thể giải quyết tất cả những vấn đề này nếu không bình thường hóa quan hệ với Nga, và sẽ không có bình thường hóa nếu không giải quyết xung đột ở Ukraine.
Trên thực tế, Ukraine đã bị đẩy ra khỏi “phương trình” đàm phán. Vậy câu hỏi đặt ra là, một vị trí đàm phán tốt nhất có thể mà Mỹ luôn cam kết mang lại cho Ukraine đang là gì? Rõ ràng, không có! Mỹ sẽ không tạo ra bất kỳ điều kiện thuận lợi nào cho Ukraine. Họ chỉ muốn giữ những điều kiện tốt nhất cho riêng mình. Dường như, Washington chỉ muốn duy trì tâm lý thoải mái, cũng như kiếm lời được càng nhiều càng tốt trong cuộc xung đột này.