8 loài hoa chữa bệnh nên trồng trong sân nhà

Hoa Lê 02/04/2018 14:10

(Baonghean.vn) - Hoa hồng, sống đời, cúc dại là 3 trong 8 loài hoa lành tính có thể trồng trong gia đình vừa để làm đẹp không gian vừa có tác dụng hỗ trợ chữa bệnh.

Sống đời

Sống đời còn gọi là cây thuốc bỏng, lạc địa sinh căn, thổ tam thất, trường sinh, tên khoa học là Kalanchoe pinnata (Lam) Pers. Toàn thân cây có vị nhạt, chát, hơi chua, tính mát, có tác dụng giải độc, tiêu thũng, hoạt huyết chỉ thống, bạt độc sinh cơ.

Ngọn và lá sống đời non dùng làm thuốc giải độc, chữa bỏng, đắp vết thương, đắp mắt đỏ sưng đau, đắp mụn nhọt và cầm máu. Do có tác dụng kháng khuẩn nên sống đời còn được dùng trị một số bệnh đường ruột và bệnh nhiễm trùng khác như viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, đi ngoài ra máu.

Ở Ấn Độ, người ta dùng lá cây này đắp trị bỏng, vết thương, mụn nhọt và các vết cắn đốt của côn trùng. Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng chữa ung sang thũng độc, viêm tuyến vú, đan độc, ngoại thương xuất huyết, đòn ngã, tổn thương, gãy xương, bỏng, viêm tai giữa.

Hoa hồng

Hoa hồng có vị ngọt, tính ấm có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng. Bột hoa còn có tác dụng cầm máu, chữa băng huyết, đi cầu lỏng (cẩn thận trong trường hợp tiêu hóa khó khăn, không dùng cho phụ nữ có thai).

Rễ hoa hồng giúp chữa đòn ngã tổn thương, bạch đới, di tinh; đồng thời dùng hoa tươi và lá đắp ngoài. Lá cây còn dùng chữa bạch cầu lao. Lá, trái hồng trị thấp khớp, nhọt, đái dầm, đái máu, tê thấp. Nụ hoa trị kinh nguyệt đau, tuần hoàn yếu, đau bao tử.

Ngọc lan

Hoa này có tên khác là ngọc lan hoa vàng, sứ hoa vàng hay hoàng lan, tên khoa học là Michelia champaca L. Hoa chứa tinh dầu có giá trị ngang với tinh dầu hoa hồng. Lá cũng chứa tinh dầu. Vỏ chứa một alcaloid ít độc.

Rễ và quả cây có vị đắng tính mát có tác dụng khư phong thấp, lợi hầu họng, kiện vị chỉ thống. Rễ khô và vỏ rễ có tính xổ, điều kinh. Vỏ thân có tác dụng giải nhiệt, hưng phấn, khư đàm, thu liềm. Hoa và quả có tác dụng làm phấn chấn, trấn kinh, khư phong, kiên vị, lợi niệu. Lá có tác dụng giải độc.

Vỏ cây ngọc lan làm thuốc trị sốt, ho, điều kinh, có thể dùng làm thuốc trị sốt rét cách nhật. Rễ khô và vỏ rễ dùng tươi dạng thuốc làm thuốc uống để điều kinh và dùng sắc rồi thêm sữa đông đắp trị áp xe.

Hoa và quả chữa đầy hơi, buồn nôn và sốt lại có tác dụng lợi tiểu. Hạt và quả dùng trị nứt nẻ ở chân, hạt cũng dùng làm thuốc trị giun. Lá dùng làm thuốc trị đau yết hầu. Tinh dầu được dùng làm hương liệu, làm thuốc đắp trị đau đầu, viêm mắt và thống phong.

Thược dược

Cây này còn gọi là thổ thược dược, đại lệ cúc, tên khoa học là Dahlia pinnata Cav. Rễ thược dược có vị đắng, tính mát có tác dụng tiêu viêm, chỉ thống nên dùng làm thuốc tiêu viêm, đau. Ở Trung Quốc, người ta dùng rễ trị đau răng, viêm tuyến mang tai, vô danh thũng độc.

Mẫu đơn

Mẫu đơn còn gọi là bạch thược cao, mộc thược có tên khoa học là Paeonia suffruticosa Andr. Vỏ và rễ cây có vị đắng, cay, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, hoạt huyết tán ứ, tán độc phá ban.

Vỏ thân được dùng làm thuốc đau đầu, đau khớp, thổ huyết, khạc ra máu, đái ra máu, kinh bế, đau bụng kinh, mụn nhọt, lở độc và đòn ngã tổn thương. Vỏ là mẫu đơn bì, lợi kinh, lợi tiểu, tốt máu, kháng sinh, chống viêm, hạ hạt thần kinh trung khu, giảm đau, trị kinh phong, hạ nhiệt; chứa acetophenon đè nén sự quyến tụ của phiến bào, nên chống viêm, chống nhiệt.

Hoa cúc dại

Hoa cúc dại có đặc tính kháng virus và kháng khuẩn, đặc biệt tốt cho việc làm giảm dị ứng, điều trị vết thương, bỏng và các vết loét. Cúc dại cần ánh sáng mặt trời và đất thoát nước tốt.

Tầm xuân

Hoa này còn có tên khác là hồng choắt, hồng roi, tên khoa học là Rosa cymosa Tratt. Quả được dùng trị ho. Rễ, lá non dùng trị phong thấp, đòn ngã tổn thương, chữa kinh nguyệt không đều, sa tử cung, trĩ lở, thoát giang, lở độc và ngoại thương xuất huyết, rễ điều hòa kinh nguyệt, hạ lipid máu. Hoa tầm xuân cũng dùng trị kinh nguyệt quá nhiều, di tinh, đòn ngã tổn thương, lở miệng và đau răng, làm tóc đen trở lại.

Hòe

Cây này còn gọi là hòe hoa, hòe mễ, lài luồng (Tày), tên khoa học là Sophora japonica L. Hoa hòe có màu vàng, vị hơi đắng, dài 0,5-0,8 cm, rộng 0,2-0,3 cm, cánh hoa vàng nâu, đài hoa vàng xám.

Nụ hoa đã phơi hoặc sấy nhẹ đến khô dùng làm dược liệu có tên khoa học là Flos Styphnolobii japonici imaturi. Nụ hòe có vị đắng nhạt, mùi thơm, tính bình; quả hòe có vị đắng, tính mát, đều có tác dụng hạ nhiệt, mát huyết, cầm máu, làm sáng mắt, bổ não. Ngày nay người ta còn biết thêm các tác dụng làm giảm tính thẩm thấu của mao quản, kháng chiếu xạ, hạ huyết áp.

Ngoài ra, hoa hòe có tác dụng lượng huyết, tăng cường sức đề kháng, giảm tính thẩm thấu của mao mạch, hồi phục tính thẩm thấu của mao mạch đã bị tổn thương. Thêm vào đó là tác dụng chống viêm, bảo vệ cơ thể chống chiếu xạ, hạ huyết áp, hạ cholesterol máu, cầm máu, chống kết tập tiểu cầu, quercetin làm giãn mạch vành, cải thiện tuần hoàn tim.

Theo y học hiện đại, nụ hòe và rutin được dùng làm thuốc cầm máu trong các trường hợp xuất huyết, đề phòng tai biến do xơ vữa mạch máu, tổn thương mao mạch, xuất huyết dưới da, xuất huyết có liên quan đến xơ vữa động mạch, xuất huyết võng mạc, tăng huyết áp.

Theo y học cổ truyền, hòe điều trị trường phong tiện huyết (đi ngoài ra máu tích phong nhiệt), niệu huyết, huyết lãm, băng lậu, trĩ ra máu, chảy máu cam, nôn ra máu, tăng huyết áp.

Theo (Tổng hợp)
Copy Link
Mới nhất
x
8 loài hoa chữa bệnh nên trồng trong sân nhà
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO