Bài cuối - Hai bà mẹ

04/04/2013 21:14

> Bài 2: Bức thư người lính đảo

Tình thương người mẹ kế

Chúng tôi tìm về xóm 7, xã Thượng Sơn (Đô Lương), hỏi thăm nhà bà Nguyễn Thị Mai nhưng mọi người đều có chung câu trả lời: “Ở đây không có ai là bà Mai”. Đến lúc phải nói rõ: “Bà Mai có con trai là liệt sỹ Nguyễn Tất Nam (sinh năm 1967), hy sinh trong trận Hải chiến với quân Trung Quốc năm 1988”, lập tức có người dẫn đến tận cổng nhà. Sau khi trình bày mục đích cuộc viếng thăm, chúng tôi ngỏ ý muốn được xem toàn bộ giấy tờ liên quan đến liệt sỹ. Và quả nhiên, điều bất ngờ đã xẩy đến khi nhận thấy toàn bộ giấy tờ đều ghi liệt sỹ Nguyễn Tất Nam, là con bà Hồ Thị Khuyên, trong khi danh sách do Hội Cựu chiến binh tỉnh cung cấp là bà Nguyễn Thị Mai.

Đem thắc mắc này đến với gia chủ, được biết bà Mai là mẹ đẻ của anh Nam do ốm đau, bệnh tật đã từ giã cuộc đời khi đứa con trai của mình chưa đầy 3 tuổi. Vợ mất khi các con đang còn quá thơ dại (trước anh Nam có 2 chị gái), ông Nguyễn Tất Sỹ (bố liệt sỹ Nguyễn Tất Nam, đã mất cách đây gần 2 năm) quyết định chia sẻ gánh nặng với bà Hồ Thị Khuyên. Lúc đó, bà Khuyên là vợ liệt sỹ, chồng bà đã hy sinh trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một mình bà đang tảo tần nuôi đứa con đầu lòng. Về chung sống với ông Sỹ, bà Khuyên sinh thêm 2 người con trai là Nguyễn Tất Bắc và Nguyễn Tất Việt.

Suốt cuộc chuyện trò, gần như lúc nào nước mắt cũng chảy tràn trên khuôn mặt của bà Khuyên. Lúc ấy, chúng tôi mới thực sự “ngộ” ra rằng câu nói “Bao giờ bánh đúc có xương...” của người xưa chắc hẳn sẽ có những ngoại lệ, và tình cảm của bà Hồ Thị Khuyên dành cho người con riêng của chồng là một biểu hiện sinh động cho những ngoại lệ ấy. Bà kể trong tiếng nấc: “Thấy 3 đứa con ông Sỹ mất mẹ lúc còn quá nhỏ, bố thường phải đi công tác xa (ông Sỹ lúc ấy công tác trong ngành Giao thông- PV), phải sống côi cút, bơ vơ, tôi nhận lời gá nghĩa cùng ông ấy. Lúc mới về, thằng Nam còn nhỏ, mới lẫm chẫm tập đi, sức vóc nhỏ bé và hay ốm yếu...”.

Trước tình cảnh ấy, bản năng làm mẹ đã thôi thúc bà Khuyên dồn hết tình cảm để chăm sóc, yêu thương anh Nam như chính con ruột của mình. Bà thay người mẹ đã khuất chăm lo từng miếng cơm, thìa cháo cho đứa con trai nhỏ của chồng. Những hôm trái gió trở trời, anh Nam lên cơn sốt hoặc đau bụng âm ỉ, bà Khuyên lại thức thâu đêm vỗ về, ôm ấp để anh tìm vào giấc ngủ. Ông Sỹ vắng nhà thường xuyên, một mình bà tất tả với ruộng vườn và những đứa con nhỏ. Những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, bà Khuyên phải gồng mình lên để làm việc, để lo cho các con chuyện ăn mặc, học hành.

Có lẽ do phải chịu cảnh mồ côi mẹ lúc còn bé tý, chưa ý thức được nỗi bất hạnh của cuộc đời, lại được đón nhận những tình cảm chân thành, thiết tha và nồng ấm từ người mẹ kế nên từ trong sâu thẳm lòng mình, anh Nam luôn xem bà Khuyên là người đã sinh ra mình. Ngay cả sau này, khi bà Khuyên sinh thêm 2 người con trai và khi anh Nam đủ lớn để hiểu được mọi chuyện, sự yêu thương và kính trọng ấy vẫn không hề thay đổi…

Dừng một lúc lau khô dòng nước mắt đang chứa chan, bà Khuyên tiếp tục câu chuyện: “Là con trai nhưng thằng Nam sống rất tình cảm, hồi nhỏ đi học về là sà ngay vào lòng mẹ để kể chuyện trường, chuyện lớp. Nó thường khoe là được các thầy cô khen hát hay, được vào đội văn nghệ của trường. Bình thường nó cũng vui tính lắm, cứ nói cười suốt ngày”. Sau mỗi buổi học, anh Nam thường đỡ đần công việc cho mẹ, từ việc trông em đến chăn trâu cắt cỏ và kể cả công việc đồng áng nặng nhọc.

Những năm sau chiến tranh chống Mỹ, cuộc sống thiếu thốn đủ bề, miếng cơm manh áo là cả một mối lo lớn đối với gia đình. Vì thế, học xong cấp 2, anh Nam quyết định nghỉ học để cùng mẹ làm lụng nuôi các em. Ngày quần quật với việc ruộng đồng, đêm anh Nam cùng các bạn trong làng tổ chức đàn hát. Được chứng kiến tài hát hay, đàn giỏi của anh, không ít cô gái ở làng trên, xóm dưới đã thầm thương, trộm nhớ. Thậm chí, có những người mẹ đã tìm gặp bà Khuyên bàn chuyện vun vén tình cảm, tiến tới xây dựng tình thông gia. Nói ra điều này với con, anh Nam chỉ cười rồi nói rằng chưa nghĩ đến, vì nhà còn nghèo, các em còn nhỏ.

Những di vật gửi lại

Thế rồi, năm 1985, khi vừa tròn 18 tuổi, Nguyễn Tất Nam lên đường nhập ngũ. Ngày anh lên đường, bà Khuyên làm bữa cơm liên hoan mời anh em bạn bè của anh. Bà vẫn nhớ sau bữa ăn, anh Nam ôm cây đàn ghi-ta vừa đệm, vừa hát “Huyền thoại mẹ”- một ca khúc của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn sáng tác trước đó không lâu. Sáng hôm sau, tại sân vận động xã Thượng Sơn, khi chiếc xe chở tân binh bắt đầu chuyển bánh, bà Khuyên cầm tay con và nước mắt tuôn rơi. Anh Nam nắm chặt tay mẹ và nói: “Mẹ khóc làm chi, con chỉ đi có 3 năm rồi trở về thôi mà!”. Chiếc xe lăn bánh, anh Nam đưa tay vẫy và nở nụ cười chào tiễn biệt mọi người. “Đã mấy chục năm trôi qua, tôi vẫn nhớ như in nụ cười của thằng Nam lúc ấy, nhiều lúc cứ ngỡ như nó vừa mới lên đường ngày hôm qua...”. Và trong những giấc mơ của bà, nụ cười của Nam nhiều lúc bất chợt hiện về, bà lấy hết sức bình sinh để gọi tên con, anh chỉ cười không đáp lại.

Trong thời gian tại ngũ, anh Nam có gửi thư về mấy lần. Rất tiếc, những bức thư ấy sau này ông Nguyễn Tất Sỹ cất giữ, giờ ông đã mất, gia đình vẫn chưa tìm ra. Qua những cánh thư của con, bà Khuyên biết anh Nam đã trở thành chiến sỹ Hải quân, nhiệm vụ của anh và đồng đội là canh giữ biển trời Tổ quốc. Anh kể về những chuyến ra khơi xa, nơi có những con sóng tung lên đến mấy mét, nơi có những đàn cá lớn đua nhảy và bơi theo mạn tàu... Bức thư cuối cùng, anh Nam gửi về cho gia đình vào dịp sau Tết Nguyên đán năm 1988. Anh nói không được sum vầy bên gia đình ngày Tết, nhưng đón Tết ở đơn vị cũng vui lắm, có đủ bánh chưng và thịt lợn. Ít ngày nữa anh sẽ lên tàu ra đảo làm nhiệm vụ một thời gian. Sau chuyến công tác này, anh sẽ hoàn thành nghĩa vụ với đất nước, sẽ đến hạn xuất ngũ để trở về với quê hương, gia đình. Anh chia sẻ với bố mẹ dự định sau khi xuất ngũ, cố gắng ôn tập để thi vào trường nghệ thuật, vì từ nhỏ anh đã rất mê đàn hát.



Liệt sỹ Nguyễn Tất Nam (ngoài cùng, bên phải) và các đồng đội
(ảnh gia đình cung cấp).

Không lâu sau khi nhận được bức thư cuối cùng của anh Nam, các thành viên trong gia đình chợt lặng người khi nhận được bức thư của Bộ Tư lệnh Hải quân, có nội dung: “ngày 14/3/1988, Trung Quốc đã cho nhiều tàu chiến có trang bị đại bác cỡ lớn và tên lửa khiêu khích, bắn cháy và bắn chìm 3 tàu vận tải 604,605, 505 không có vũ trang của ta ở khu vực đá ngầm Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thuộc cụm Sinh Tồn thuộc quần đảo Trường Sa.

Bằng những vũ khí tự vệ, cán bộ, chiến sỹ ta trên các tàu đã anh dũng chiến đấu, kiên quyết bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc trên biển và trên quần đảo Trường Sa... Trong khi tàu chiến Trung Quốc uy hiếp, đe dọa và khiêu khích, các tàu cứu hộ của ta bất chấp hiểm nguy, bất chấp hy sinh, không kể gian khổ vất vả, ngày đêm bằng mọi biện pháp tìm kiếm, cấp cứu đồng chí của mình bị nạn. Nhưng đến nay vẫn còn 74 đồng chí đang bị mất tích, trong đó có đồng chí Nguyễn Tất Nam...”.

Sau phút giây choáng váng, ông bà lại hy vọng con trai mình còn sống, đang trôi dạt đâu đó hoặc đang bị địch giam giữ, sẽ có ngày trở về. Sau đó, ông Sỹ nhiều lần gửi thư cho Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Ngoại giao để hỏi thăm tình hình. Câu trả lời vẫn tương tự nội dung bức thư trên. Tay mân mê tấm ảnh anh Nam cùng đồng đội trong bộ quân phục Hải quân đang nở nụ cười hồn nhiên, tươi trẻ, bà Khuyên nức nở: “Con nói đi 3 năm sẽ trở về, nay đã gần 30 năm sao vẫn chưa về? Không lẽ, gia đình đã hết niềm hy vọng? Không lẽ ước mơ của con không thể thực hiện được nữa rồi? Bạn bè trong xã cùng nhập ngũ với con nay con cái đã lớn cả, có người đã sắp dựng vợ gả chồng cho con cái rồi đó, Nam ơi!”. Rồi bà Khuyên cho chúng tôi xem kỷ vật của anh Nam, đó là chiếc xe đạp Thống Nhất đã cũ, vẫn còn rất chắc chắn. Ngoài chiếc xe, còn có thêm chiếc va li đựng đồ hiện người chị gái đang cất giữ làm kỷ niệm. “Đó, ra đi nó chỉ gửi lại từng đó thôi...”- bà Khuyên ngậm ngùi.

Thay lời kết

Lúc viết những dòng cuối cùng của chùm bài “Bản hùng ca Trường Sa” này, chúng tôi vẫn còn day dứt trong lòng và có cảm giác mình đang mắc nợ. Bởi lẽ, người viết chỉ mới gặp gỡ, tiếp xúc với gia đình, thân nhân của 4 liệt sỹ quê Nghệ An hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988. Do điều kiện thời gian, chúng tôi chưa thăm hỏi, tiếp xúc với thân nhân của 4 liệt sỹ còn lại là Trần Văn Minh (Quỳnh Long - Quỳnh Lưu), Lê Bá Giang (Thành phố Vinh), Phạm Văn Dương (Nam Kim - Nam Đàn) và Cao Đình Lương (Trung Thành - Yên Thành). Người viết sẽ cố gắng gặp gỡ, viếng thăm và tìm hiểu trong một dịp khác.

Thêm một điều nữa, là sau khi bài thứ nhất và thứ hai được đăng tải, một số độc giả đã trực tiếp liên lạc với tác giả, bày tỏ sự thắc mắc về nhan đề “Bản hùng ca Trường Sa”. Vì các bài viết không nói nhiều đến tinh thần xả thân và ý chí chiến đấu của người lính trước làn đạn của kẻ thù, chỉ tập trung nói về thân nhân và hậu phương của người lính. Điều này, không phải là không có lý nhưng chúng tôi dùng cụm từ “bản hùng ca” với nghĩa rộng hơn.

Xuất phát từ quan niệm mỗi con người sinh ra đều có tuổi thơ, có gia đình và quê hương, tất cả đều góp phần hình thành nên nhân cách và phẩm giá nên người viết tập trung khai thác những yếu tố này. Hơn nữa, tinh thần và ý chí chiến đấu của các chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam trong trận Hải chiến Trường Sa 25 năm về trước đã được các phương tiện truyền thông khác cùng các nhân chứng dựng lại một cách khá chi tiết. Qua đây, chúng tôi muốn khẳng định một điều tuổi thơ, gia đình, quê hương, tình thương yêu và sự hy sinh thầm lặng của những người cha, người mẹ, người vợ của các liệt sỹ đã góp phần dệt nên “Bản hùng ca Trường Sa” bất tử. Đó không chỉ là niềm tự hào của thân nhân và gia đình các liệt sỹ mà còn là niềm tự hào của quê hương Nghệ An và của cả đất nước Việt Nam.


Công Kiên

Mới nhất
x
Bài cuối - Hai bà mẹ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO