Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An điều trị thành công cho bệnh nhân bị U mô đệm tiêu hóa di căn gan
U mô đệm tiêu hóa (GIST - Gastrointestinal stromal tumors) chiếm dưới 1% các loại u ở đường tiêu hóa. GIST di căn gan hay phúc mạc không phải là giai đoạn cuối và hết cách cứu chữa.
Mới đây, lần đầu tiên tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An, Tiến sĩ, Bác sĩ Đinh Văn Chiến và ê-kíp đã phẫu thuật điều trị thành công cho bệnh nhân bị GIST có kích thước lớn (10x11cm) ở tâm phình vị dạ dày biến chứng chảy máu tiêu hóa và di căn gan bằng cắt phần trên dạ dày, phục hồi lưu thông tiêu hóa theo kỹ thuật Double-tract.
Bệnh nhân bị GIST là chị Lô Thị M, 46 tuổi, ở huyện Kỳ Sơn. Bệnh nhân Lô Thị M nhập viện vì chảy máu đường tiêu hóa. Qua thăm khám, xét nghiệm, nội soi, chụp cắt lớp vi tính được các bác sĩ chẩn đoán chảy máu tiêu hóa do GIST tâm phình vị dạ dày, di căn gan phải.

Sau hội chẩn, các bác sĩ đã thực hiện phẫu thuật cho bệnh nhân, với việc cắt phần trên dạ dày, phục hồi lưu thông bằng kỹ thuật Double-tract để chống trào ngược và ung thư thực quản vào ngày 13/3/2025. Ngày thứ 2 sau điều trị, bệnh nhân đã vận động và cho ăn uống trở lại theo chế độ hậu phẫu.
Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Đinh Văn Chiến: GIST được Mazur và Clark báo cáo lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1983. GIST chiếm dưới 1% các loại u ở đường tiêu hóa, tỷ lệ mắc mới hàng năm trên thế giới ước tính từ 10 - 20 bệnh nhân/1 triệu dân và vị trí u chủ yếu gặp ở dạ dày.
Điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ u và điều trị đích, có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu đúng phương pháp. Chỉ định điều trị GIST khác với các u hay ung thư khác. GIST di căn gan hay phúc mạc không phải là giai đoạn cuối và hết cách cứu chữa.

Tiến sĩ, Bác sĩ Đinh Văn Chiến cho biết thêm: Mức độ ác tính của GIST phụ thuộc vào sự phân chia của tế bào u. Sự phân chia càng lớn thì mức độ ác tính càng cao. GIST không di căn theo đường bạch huyết và không xâm lấn vào các tạng xung quanh, sự di căn của nó vào tạng khác theo con 2 đường trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là do gieo rắc tế bào u vào các tạng, từ đó tế bào u phát triển lên thành u; gián tiếp là qua đường tiêu hóa hoặc qua đường máu do u vỡ.
GIST không có mạch máu, sự phát triển của u là nhờ vào men kích thích tăng trưởng tyrosin kinase. Với những đặc tính đó cho thấy GIST di căn gan hay phúc mạc… không phải là giai đoạn cuối và không phải hết cách cứu chữa.
Lựa chọn phương pháp điều trị, liều lượng thuốc, thời gian điều trị của GIST phụ thuộc vào kích thước, sự phân chia tế bào u và sự di căn. Do đó, phẫu thuật cắt bỏ triệt để u hoặc làm giảm kích thước u là rất quan trọng trong chiến lược điều trị khi GIST có biến chứng chảy máu, thủng và di căn. Sau phẫu thuật kết hợp điều trị đích bằng imatinib để ức chế tyrosin kinase thì các khối di căn gan sẽ teo dần và khỏi. Có thể điều trị tân bổ trợ để làm giảm kích thước u trước phẫu thuật nếu chưa có biến chứng, sau phẫu thuật tiếp tục duy trì điều trị đích.
Trong những năm qua, Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An định hướng phát triển kỹ thuật chuyên sâu hạng đặc biệt của khu vực Bắc Trung Bộ.
Tiến sĩ, Bác sĩ Đinh Văn Chiến và ê-kíp đã thực hiện thành công nhiều kỹ thuật mới, chuyên sâu mang tầm quốc tế tại bệnh viện, trong đó có những kỹ thuật chuyên sâu lần đầu tiên được ứng dụng ở Việt Nam như: Kỹ thuật T-Shaped; kỹ thuật Delta-Shaped; kỹ thuật phẫu thuật nội soi xuyên thành dạ dày (Laparoscopic transgastric); kỹ thuật phẫu thuật nội soi nối tá-hổng tràng điều trị hội chứng động mạch mạc treo tràng trên và hẹp quai Y sau nối mật-ruột; kỹ thuật nạo vét hạch qua Tam giác cửa trong phẫu thuật nội soi dạ dày; kỹ thuật Double-tract; kỹ thuật Double-Flap trong phẫu thuật cắt bán phần trên (cực trên) dạ dày.