Mặn mòi với biển
(Baonghean) - Năm mươi năm trước, lũ trẻ làng rủ nhau ra bãi Ngang tập bơi với sóng biển dập dìu. Thuở đó, trong cái "ao" bao la ấy chỉ những con thuyền gỗ loại vừa hoặc nhỏ vẫy vùng mà no cơm ấm áo bao đời. Chỉ cần mũi thuyền gắn cặp sào te làm bằng 2 cây tre đằng ngà, cứng, chắc, lẫm liệt oai phong như cặp sừng trâu rừng, và dăm bảy sải câu vàng, mấy chiếc cần câu ống câu trên thuyền, sáng dong buồm ra khỏi chục cây số xa bờ, chiều về đã có mấy tạ cá măng, cá ù... Thuyền vừa buông neo, các bà, các chị từ trên bãi đã ào xuống thuyền, đầu đội, tay xách, hớn hở nói cười, chuyển cá lên bờ.
.... Biển ngày nay không còn như ngày xưa. Chẳng hiểu sao con người thời hiện đại lại ích kỷ, vụ lợi tới mức tàn nhẫn đối với cái mặn mòi máu thịt chỉ có ở biển bao la. Sự tàn nhẫn ấy ẩn trong những mắt lưới được thu nhỏ nhiều lần, hay hàng tạ thuốc nổ hủy diệt... Nguồn lợi biển nhanh bị cạn, miếng cơm manh áo của hàng chục vạn ngư dân theo đó vơi dần. Càng ngày, biển càng "co mình" trước lòng tham con người.
Ảnh minh họa: Internet
Nhưng là dân biển nên lứa trẻ nào của biển cũng lớn kịp để sống chung với biển. Lứa trẻ tập bơi ngày nào đã kịp lớn, chúng được nuôi dưỡng từ nắng biển hun da từ đói nghèo cố can để lại, từ màu tóc hoe vàng mà đứa nào cũng kinh qua. Lứa trẻ này hầu hết không đánh vần nổi tên mình nhưng sớm biết theo cha, theo anh ra biển, sớm là chủ nhân trên đặc quyền lãnh hải của Tổ quốc thân yêu. "Ra Chào vào Hội", với tàu thuyền thì lạch Chào của xứ Thanh khó ra, lạch Hội của xứ Nghệ khó vào.
Sau mấy ngày lênh đênh giữa xanh trời xanh biển, đêm nằm dưới "khách sạn ngàn sao" nghêu ngao thơ phú, tôi vừa bước lên bờ đã lâng lâng bay bổng. Đến nay vẫn nhớ giây phút thăng hoa của trận say đất duy nhất trong đời. Những ai lần đầu được lênh đênh trên biển, khi thuyền cập bến thì hầu hết bước lên bờ đều có chung bước đi liêu xiêu, phải có người dìu để không bị ngã xuống đất. Say đất đầu óc tít mù, "dư chấn" của mỗi trận say đất kéo dài hằng tuần, có người "yếu vía" phải mất cả tháng. Lạ lùng ở chỗ say đất dường như không từ ai trong lần đầu ra biển, cho dù người ấy cao to lực lượng, và cho dù trên biển gặp gió cấp 6, cấp 7 người ấy không bị say, song khi vừa đặt chân lên bờ thì vẫn bị say đất như thường.
Các lão ngư bảo say sóng dễ chịu hơn say đất, say sóng còn được tiếng là thanh liêm, trong sạch, không vụ lợi, bởi ăn được chút gì vào bụng cũng thốc tháo trả hết cho biển. Còn say đất ruột gan cồn cào mấy ngày liền, có muốn thốc tháo cho khỏe đầu khỏe bụng cũng không thể cho nên trận say ấy tôi thiếp đi trong giấc ngủ chẳng êm đềm, vài hôm sau mới nhớ lại những gì xẩy ra với cảm giác được neo giữ tới hôm nay. Trong giấc mơ tôi bay lên nhờ đôi cánh tay đã biến thành cánh chuồn mỏng tang của tuổi thơ, từ trên cao nhìn xuống biển thấy rõ cá nhà táng, cá nhám cào và vô vàn loài cá khác phô diễn đủ kiểu bắt mồi...
Mấy năm sau từ chiến trường, những đêm giữa rừng sâu núi thẳm, tôi nhớ biển, nhớ quê, đem chuyện say đất kể cho mấy thằng cùng tiểu đội quê Yên Bái, Lào Cai. Dù chưa một lần thấy biển, sau khi nghe tôi kể, chúng bảo vẫn cảm giác say đất lâng lâng, vẫn cảm nhận mặn chát ngọt ngào của biển. Thằng Lương Na nói như đinh đóng cột: Sau này Tổ quốc thống nhất tớ sẽ đến Cửa Hội để được một lần đi biển, để được một lần say đất như mày! Vài chục năm sau, tại đám cưới đầu Xuân ở làng chài, tình cờ tôi ngồi cùng mâm với ông già râu tóc bạc cước, sau vài câu xã giao ông nhận ra tôi là bạn nối khố của con mình.
- Chú biết không - giọng ông chùng xuống. Ngày trước hễ câu được cá Sú Vàng thì cứ vô tư xẻ cho vào nồi đánh chén. Kéo câu khỏi mặt nước mà nhìn thấy loài đẻn (rắn biển) là buồn như mất sổ gạo, đành quẳng trả chúng xuống biển vì chẳng ai thèm ăn của nợ ấy. Rứa mà giờ 9 -10 triệu đồng một cân cá Sú Vàng, mấy trăm ngàn một cân đẻn, của ngày trước quăng đi tại răng giờ lại thành đặc sản chú hì ?
Nghe tôi giải thích, mắt ông già sáng lên:
- Đúng! Đúng! Tri thức của con người không lên bổng xuống trầm như giá của nhiều thứ sản phẩm khác trên đời.
Ngoài bát tuần ông vẫn đôi chân vòng kiềng, toàn thân như chúi về phía trước - di chứng của dân làng chài từ mấy chục năm trước. Ngày ấy, người dân vạn chài quê tôi quanh năm lênh đênh sông nước, cả nhà chen chúc trong khoang chiếc thuyền ba lá, dọc ngang mỗi chiều không đầy hai mét. Mỗi lần thuyền cập bến tiếp gạo, củi, nước...đám trẻ nít cùng tuổi tóc cháy vàng, da hắc ín, chúng được một buổi làm người đi thẳng đứng thẳng trên mặt đất. Với người lớn mỗi khi lên bờ là bước thấp bước cao đi như bị ma đuổi.
Đám trẻ vạn chài chạy vào làng tìm bạn cùng trang lứa, có bữa cả tốp lân la ngoài cổng chờ tôi đi học về để tập cho chúng chơi đáo, khơi khăng. Chúng giành nhau xem minh hoạ trong sách Tập đọc lớp một, lớp hai rồi lớp ba, và phải chờ tôi đọc to chúng mới hiểu người ta nói gì.
Bố tôi lặng nhìn lũ nhóc cùng tuổi với con mình mà khẽ thở dài. Hôm sau, bố tôi kiếm mấy tấm ván sạp đóng thành bảng lớn, vận động dân vạn chài cho lũ trẻ học mỗi tuần hai buổi, bố dạy miễn phí, vậy mà chỉ sau một tháng lớp học chẳng còn bóng đứa nào, đám trẻ phải sớm cùng bố mẹ vào lộng, ra khơi vì cuộc mưu sinh, vì chúng còn phải làm anh của bầy em nheo nhóc. Đến khi dân vạn chài được cấp đất dựng nhà thì lũ bạn cùng lứa với anh đã quá tuổi đến trường...
Loáng đã năm mươi năm! Bây giờ dáng đi của người dân vạn chài quê tôi không còn cúi gập trên đôi chân vòng kiềng nữa. Đám bạn ngày ấy của tôi dù đã thành ông, thành bà, đến nay họ vẫn chưa qua lớp một, nên mỗi lần gặp tôi họ thở dài luyến tiếc nhớ về lớp học miễn phí ngày xưa. Tôi nhận ra điều không hiện hình: Mồ hôi, nước mắt, và cả máu nữa, của bao thế hệ vạn chài đã hòa trong mặn chát muôn đời của biển, đã hòa trong bến bờ - còn gọi là vùng bãi ngang, đã hòa trong điệp trùng tiếng sóng muôn đời dội bờ. Càng da diết nhớ mấy thằng bạn cùng đơn vị hẹn mãi không thấy về để cùng nhau được một lần nghiêng ngả say đất, say biển, say trời.
Giao Hưởng