Quản lý tổng hợp khai thác đới bờ: Bảo vệ tài nguyên bền vững
(Baonghean) - Đới bờ được hiểu là vùng chuyển tiếp giữa lục địa và biển, bao gồm cả vùng đất ven biển và vùng biển ven bờ, nơi được con người lưu tâm hơn so với những vùng khác. Có nhiều thuật ngữ khác nhau về đới bờ được sử dụng như vùng bờ, vùng ven biển, dải ven biển... Đối với Việt Nam, vùng đới bờ biển được xác định (theo Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ) bao gồm các huyện ven biển, vùng biển tính từ mép nước ra biển 6 hải lý.
(Baonghean) - Đới bờ được hiểu là vùng chuyển tiếp giữa lục địa và biển, bao gồm cả vùng đất ven biển và vùng biển ven bờ, nơi được con người lưu tâm hơn so với những vùng khác. Có nhiều thuật ngữ khác nhau về đới bờ được sử dụng như vùng bờ, vùng ven biển, dải ven biển... Đối với Việt Nam, vùng đới bờ biển được xác định (theo Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ) bao gồm các huyện ven biển, vùng biển tính từ mép nước ra biển 6 hải lý.
Cũng giống như các quốc gia ven biển trên thế giới, vùng đới bờ Việt Nam đã, đang đặt ra những thách thức liên quan đến suy thoái môi trường, tài nguyên và phát triển bền vững ở từng địa phương, từng ngành và của quốc gia. Trên cơ sở kinh nghiệm và các mô hình về quản lý đới bờ của các quốc gia ven biển trên thế giới, Việt Nam chúng ta cũng đưa quản lý tổng hợp đới bờ (QLTHĐB) áp dụng vào việc quản lý đới bờ của nước ta vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, sau khi Việt Nam tham gia Chương trình Khu vực về ngăn ngừa và quản lý ô nhiễm môi trường các biển Đông Á (GEF/UNDP/IMO/MPP-EAS).
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 về “phê duyệt Chương trình Quản lý tổng hợp dải ven biển Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Chương trình được thực hiện tại 14 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ, bao gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Mục tiêu của chương trình nhằm tăng cường năng lực quản lý, bảo vệ, sử dụng và khai thác tài nguyên, môi trường, phục vụ phát triển bền vững các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ thông qua áp dụng phương thức QLTHĐB.
Rừng ngập mặn ở Hưng Hòa -TP. Vinh. Ảnh: Phan Nguyễn |
Vậy, quản lý tổng hợp đới bờ là gì? QLTHĐB là một phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo. QLTHĐB là một hệ thống quản lý tài nguyên và môi trường theo cách tiếp cận tổng hợp quá trình lập chiến lược và kế hoạch hành động thực hiện chiến lược, nhằm giải quyết những vấn đề quản lý phức tạp ở đới bờ. Mục đích chính của giải pháp này là điều phối và lồng ghép các hoạt động của các ngành, các nhóm kinh tế - xã hội khác nhau trong vùng bờ để đạt kết quả phát triển tối ưu và lâu dài, giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích trong sử dụng tài nguyên và môi trường, qua đó góp phần hạn chế những tác động tiêu cực từ hoạt động của từng ngành, lĩnh vực tại đới bờ, bảo vệ môi trường và góp phần thiết thực giảm nhẹ thiên tai. Cách tiếp cận đa ngành và tổng hợp này được thiết kế để hướng dẫn hài hòa các hoạt động của hai hoặc nhiều ngành kinh tế trong việc quy hoạch và quản lý.
Trong đó, những vấn đề cần được quan tâm, đó là tăng cường công tác bảo vệ môi trường du lịch biển, bảo vệ đa dạng sinh học và nguồn lợi biển; Quan tâm đặc biệt đến phát triển hệ thống rừng ngập mặn ven biển, rừng phòng hộ; Quản lý chặt chẽ và xử lý đúng quy trình rác thải, nước thải sinh hoạt; Phát triển du lịch biển phải gắn liền với bảo vệ biển. Trong lĩnh vực nông nghiệp, quan tâm quy hoạch, điều chỉnh các hoạt động trong nuôi trồng và khai thác nguồn lợi thủy sản vùng đới bờ, hạn chế những tác động tiêu cực đến tài nguyên – môi trường biển. Ngoài ra, đó còn là sự phát triển hợp lý về cảng biển và giao thông đường thủy; công nghiệp ven bờ, đô thị hóa… Đặc biệt là cần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành trong việc tạo ra công cụ, phương pháp, con người để hỗ trợ, phát triển vùng đới bờ, góp phần bảo vệ tài nguyên - môi trường biển Việt Nam.
Qua quá trình triển khai các mô hình, dự án QLTHĐB đã được triển khai ở các địa phương như Đà Nẵng, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Nam..., theo các chuyên gia, để thực hiện tốt công tác QLTHĐB cần được tiến hành song song ở cấp Trung ương và địa phương, trong đó nhấn mạnh vai trò của Trung ương là cần thiết (hỗ trợ, hướng dẫn), nhưng vai trò của địa phương, cấp tỉnh là quyết định cho sự thành công của QLTHĐB trên thực tế. QLTHĐB cần tiến hành từ thấp lên cao, từng bước từ áp dụng khoa học và công nghệ tiến tới hỗ trợ cho quá trình quản lý, ra quyết định của địa phương, vì thế việc xây dựng lực lượng, năng lực cho địa phương là quan trọng.
Đồng thời cần phải có sự tham gia của nhiều ngành, các tổ chức xã hội nhằm thực hiện tốt công tác quản lý của ngành tại vùng đới bờ nhưng không ảnh hưởng đến ngành khác, đồng thời phát triển ngành phải đảm bảo phát triển tài nguyên và môi trường bền vững. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên biển phải đảm bảo hài hoà lợi ích của ngành với các bên liên quan. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, địa phương phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển của quốc gia, của tỉnh. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành liên quan trong công tác quản lý đới bờ đối với lĩnh vực ngành quản lý và thực hiện hiệu quả dự án quản lý tổng hợp đới bờ nói riêng và công tác quản lý nhà nước về biển, hải đảo nói chung theo chức năng, nhiệm vụ được giao; chú trọng các công tác tuyên truyền, điều tra tài nguyên vùng đới bờ, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng đới bờ...
Minh Chi