Bài 3: Nghề đan lát sẽ về đâu?

14/08/2014 22:42

(Baonghean) - Đan lát là một trong những nghề truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Cuộc sống hàng ngày của bà con gắn bó với núi rừng, núi rừng không chỉ là nơi cung cấp cái ăn, cái mặc mà cả những vật dụng trong gia đình. Từ cái gùi, cái mâm, cái nghế đến cái ép xôi đều được làm từ nguyên liệu mây, tre, giang và nứa. Nhưng hiện tại, nghề truyền thống này đang phải đối mặt với không ít những khó khăn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan...

Về bản Noòng, xã Ngọc Lâm (Thanh Chương), chúng tôi ghé thăm cụ Lương Xuân Thò - một nghệ nhân đan lát ở khu tái định cư này. Đã hơn 80 tuổi, thân hình nhỏ thó, việc đi lại đã khó khăn, tai đã nghễnh ngãng cụ Thò vẫn mải mê với nghề. Một tay cầm chiếc dao sắc, tay kia cầm sợi mây, cụ dồn toàn tâm vào công việc. Đôi bàn tay nhăn nheo của tuổi già tưởng chừng đã “cứng”, khi cầm dao chuốt nan trông rất điệu nghệ. Có lẽ việc này đã gắn bó với cụ hàng chục năm nay, đã thành kỹ năng, kỹ xảo? Dưới sàn nhà là những bó sợi mây đều tăm tắp, tưởng chừng như chúng vừa được chuốt ra từ một chiếc máy. Thấy khách bước vào, cụ Lương Văn Thò ngước lên và gật đầu chào, rồi tiếp tục công việc.

Nghệ nhân Xên Văn Quản đan mâm mây.
Nghệ nhân Xên Văn Quản đan mâm mây.

Khách hỏi chuyện, cụ Thò đáp lời, tay vẫn thoăn thoắt với con dao và những sợi nan mây. Qua câu chuyện, chúng tôi biết cụ Thò đang chuốt nan mây để đan chiếc đó bắt cá do người con rể “đặt hàng”. Hồi cụ còn trẻ, khi bản Noòng còn ở bên dòng Nậm Nơn, chung quanh có rất nhiều khe suối, cá nhiều vô kể. Lúc ấy, chỉ cần đưa lưới ra sông, đưa nơm, đó ra suối thế nào cũng sẽ có một bữa cơm cá ngon lành, có khi còn thừa để bán hoặc cho nhà khác. Chưa đầy 10 tuổi, Lương Văn Thò đã biết đan các loại vật dụng dùng để bắt cá. Thêm mấy tuổi nữa, cụ học người lớn cách đan gùi, đan mâm, đan ép và làm ghế. Với sự kiên trì và đôi tay khéo léo, cụ Thò sớm trở thành người đan đẹp nhất vùng, không ít người tìm đến nhờ đan những vật dụng trong gia đình. Hồi đó chủ yếu là đan giúp, không tính công sá gì. Nhiều người tìm đến nhờ dạy cái chuốt nan cho đều, cài nan cho chắc và trình bày hoa văn cho đẹp, cụ nhiệt tình và vui vẻ hướng dẫn. Tiếng cụ Thò đan đẹp ngày một lan xa khắp vùng, người dân các bản khác đều chèo thuyền đến bản Noòng để xem và học cách làm.

Sản phẩm đan lát truyền thống tại hội chợ.
Sản phẩm đan lát truyền thống tại hội chợ.

Dòng Nậm Nơn được ngăn làm công trình Thủy điện Bản Vẽ, bản Noòng và toàn bộ xã Kim Tiến chuyển về khu tái định cư xã Ngọc Lâm, không gian sản xuất và sinh sống có nhiều sự thay đổi. Trước thực tế đó, những bậc cao niên lo ngại bản sắc văn hóa cổ truyền của dân tộc Thái sẽ có nguy cơ bị mai một, nên cố tìm cách giữ gìn. Ngoài tiếng nói, trang phục và phong tục, tập quán, những vật dụng thường ngày cũng cần phải được chú ý để bảo tồn. Thế là, dù đã tuổi cao, sức vóc không còn được như trước, cụ Thò vẫn bận rộn với công việc đan lát. Vì người thì nhờ đan chiếc mâm mây, người nhờ đan chiếc ép, người nhờ làm chiếc ghế, có người lại nhờ đan chiếc nơm, chiếc đó bắt cá để xua đi nỗi nhớ dòng Nậm Nơn. Giờ đây, đan lát đã trở thành công việc hàng ngày của cụ Thò, nguyên liệu mây, tre, nứa được con cháu vào rừng lấy về cung cấp. Sản phẩm làm ra được con cháu gửi đi khắp nơi để tiêu thụ. Công việc đan lát đã giúp cụ có được một nguồn thu, dù không nhiều, cũng có thể giúp trang trải nhu cầu của tuổi già. Và quan trọng hơn, có việc phù hợp để làm, cụ Thò đã bớt đi nỗi buồn, nỗi nhớ quê cũ.

Khi hỏi về việc truyền nghề, cụ Lương Văn Thò lắc đầu, nét buồn thoáng trên gương mặt: “Tôi đã bày nhiều lần, con cháu không đứa nào chịu học. Lớp trẻ bây giờ không có được sự kiên trì, nhẫn nại. Cái đó này làm khoảng 5 ngày, bán được 120.000 đồng, trong khi đó đi chặt cây keo mỗi ngày được gần 200.000 đồng. Vì thế, không còn ai mặn mà với nghề đan lát nữa”.

Rời khu tái định cư xã Ngọc Lâm, chúng tôi ngược đường lên xã Thạch Giám (Tương Dương) để ghé thăm cụ Xên Văn Quản, ở bản Phòng. Cụ Quản năm nay đã bước sang tuổi 85, một trong những nghệ nhân đan lát có tiếng ở xã Thạch Giám. Lúc chúng tôi đến, cụ đang cần mẫn ngồi đan chiếc mâm mây với những động tác hết sức thuần thục. Quanh hiên nhà sàn treo đầy những cái ép xôi đã được đan sẵn với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Thấy khách đến thăm, cụ Quản tạm dừng công việc đan lát để trò chuyện. Cũng như những người đàn ông của bản làng dân tộc Thái hồi trước, cụ Quản biết đan lát từ rất sớm, khi chưa đến lứa tuổi thanh niên. Bắt đầu những từ vật dụng đơn giản như đó bắt cá, ghế mây đến những vật dụng đòi hỏi kỹ thuật cao như ép xôi, mâm mây và bế. Thời điểm hiện nay, nghề đan lát rất ít người theo, cả bản Phòng chỉ còn vài ba người đang hành nghề. Cụ Xên Văn Quản từng ở trong quân ngũ, rồi trở về làm chủ nhiệm HTX, phó chủ tịch UBND xã, làm cán bộ Hội Người cao tuổi. Khi nghỉ công tác xã hội, cụ lại trở về với nghề đan lát, vì theo cụ, không có việc gì để làm, cái tay thấy bứt rứt khó chịu. Dành thời gian cho việc đan lát còn góp phần giữ gìn được nghề truyền thống cha ông để lại.

Có điều, khi trò chuyện về nghề đan lát, nét mặt của cụ Xên Văn Quản tỏ ra không vui. Nghề này đang gặp những khó khăn nhất định, nếu không kịp thời có hướng giải quyết sẽ đối mặt với nguy cơ mai một. Trước tiên là nguồn nguyên liệu, cây mây thì ngày một hiếm. Vì rừng ngày càng bị thu hẹp, theo đó cây mây cũng ít dần. Loài cây này đem từ rừng về trồng ở nhà rất khó sống, muốn trồng được phải qua quá trình lai ghép phức tạp, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao.

Tiếp đến là vấn đề đầu ra cho sản phẩm. Khoa học - công nghệ phát triển, nhiều vật dụng được sản xuất bằng nhiều chất liệu khác nhau, vừa tiện dụng, lại phù hợp về mặt giá cả. Điều đó khiến sản phẩm đan lát truyền thống bị cạnh tranh gay gắt, nhiều lúc phải chịu “lép vế”. Đó là chưa kể khi đời sống biến đổi, có những vật dụng bị giảm sút vai trò. Chẳng hạn, không ít gia đình ăn cơm tẻ thay xôi, nên vai trò của chiếc ép xôi giảm xuống. Hay khe suối bây giờ ít cá tôm nên các vật dụng đánh bắt (nơm, đó) ít được sử dụng... Mới đây, hay tin huyện Tương Dương tổ chức Hội chợ hàng địa phương, cụ Quản đan một loạt ép xôi, rồi nhờ con cháu đến bán ở hội chợ. Qua 2 ngày hội chợ, con cháu cụ không bán được chiếc nào. Những ngày diễn ra hội chợ ở Tương Dương, chúng tôi có mặt và nhận thấy thực tế các sản phẩm của nghề đan lát rất khó tiêu thụ, “kén” người mua, hầu như khách hàng chỉ đứng xem sản phẩm, ít người mua về dùng. Tương tự, điều này cũng diễn ra ở các gian hàng mây, tre đan trưng bày ở Lễ hội Môn Sơn - Lục Dạ (Con Cuông) hàng năm.

Cũng như cụ Lương Văn Thò và những nghệ nhân đan lát khác, cụ Xên Văn Quản không khỏi lo lắng. Điều này xuất phát từ những khó khăn kể trên, khiến lớp trẻ không tha thiết với việc cặm cụi ngồi vót, cài nan. Cụ Quản chia sẻ: “Các con, cháu của tôi không đứa nào chịu học nghề đan, vì lý do tốn nhiều công sức, thu nhập ít, lại không có đầu ra cho sản phẩm...”.

Như vậy, nguyên liệu, đầu ra của sản phẩm và việc truyền nghề đang là những vấn đề vướng mắc trong việc giữ gìn, phát triển nghề đan lát truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Để giải quyết những vấn đề này, đòi hỏi các cấp, các ngành liên quân sớm xây dựng một chiến lược lâu dài, đồng thời đề ra những bước đi cụ thể?!

Bài, ảnh: Công Kiên

Mới nhất
x
Bài 3: Nghề đan lát sẽ về đâu?
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO