Đồng chí Lê Cảnh Cải với những hoạt động nổi bật trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
Lê Cảnh Cải sớm được thầy giáo dục tinh thần yêu nước, thương dân và căm thù giặc sâu sắc. Đồng chí có nhiều đóng góp tích cực trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và những giai đoạn sau đó.
Đồng chí Lê Cảnh Cải (hay còn gọi là Lê Cảnh Xứng, bí danh: Cự), sinh năm 1911 trong gia đình nông dân nghèo ở làng Phong Nậm, tổng Xuân Lâm (nay là xã Ngọc Sơn) huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Gia đình Lê Cảnh Cải có 6 người con (4 trai, 2 gái). Cả nhà chỉ có vài ba sào ruộng, nhưng vì ông nội không biết chữ nên bị bọn cường hào cướp đoạt mất vài phần, còn lại do nạn đói phải bán lấy tiền nuôi con. Từ đó, cha mẹ Lê Cảnh Cải phải lĩnh canh, cày rẽ cho địa chủ. Do nhà nghèo, hai anh đầu phải đi ở cho địa chủ để nuôi thân, riêng Lê Cảnh Cải là con trai út được ông bà cho đi học chữ với thầy đồ trong làng, để sau này biết khấn giỗ và làm khế tự khỏi bị cường hào lừa gạt. Trong thời gian được thầy Tốc [1] dạy chữ, Lê Cảnh Cải còn được thầy giáo dục tinh thần yêu nước, thương dân và căm thù giặc sâu sắc thông qua những sách báo tiến bộ và những áng văn thơ yêu nước của cụ Phan Bội Châu.
Năm 1925, tổ chức Hội Phục Việt ra đời và nhanh chóng phát triển ở nhiều địa bàn huyện Thanh Chương và khu vực tổng Xuân Lâm. Thời gian này, Lê Cảnh Cải thấy thầy Tốc, thầy Cò [2] và anh Đồng[3] thường ra quán Tế Thánh đầu làng bàn chuyện, nhiều hôm thầy Tốc còn đưa cả cậu học trò nhỏ đi theo và dặn nếu có lính đi tuần thì chạy vào báo thầy. Từ đó, Lê Cảnh Cải được thầy tin tưởng và giao nhiệm vụ canh gác cho những cuộc họp bí mật.
Tháng 3/1926, dưới sự lãnh đạo của Võ Văn Đồng, Nhân dân Phong Nậm nổi dậy đấu tranh chống lại sự bóc lột của địa chủ. Tháng 3/1928, căm phẫn trước thủ đoạn cướp đất của địa chủ, Nhân dân tiếp tục nổi dậy đấu tranh đòi hào lý phải trả lại ruộng đất, lúc này Lê Cảnh Cải đã theo chân bà con trong làng đấu tranh đòi quyền lợi.
Tháng 9/1929, đồng chí Nguyễn Phong Sắc cùng đồng chí Phan Thái Ất lên Thanh Chương lập ra tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên của huyện. Dưới sự hướng dẫn của các đồng chí, huyện Thanh Chương đã có 3 chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, bao gồm: Chi bộ Hạnh Lâm - La Mạc (do đồng chí Võ Văn Đồng làm Bí thư), Chi bộ Xuân Trường và Chi bộ Võ Liệt. Ngay sau đó, đồng chí Võ Văn Đồng được tổ chức giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở đảng ở làng Phong Nậm.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngày 20/3/1930, Đảng bộ huyện Thanh Chương cũng được thành lập. Các tổ chức quần chúng như: Nông hội đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn, Phụ nữ giải phóng, … cũng phát triển nhanh chóng. Tại làng Phong Nậm, đồng chí Võ Văn Đồng đã liên lạc với các thầy giáo làng là Nguyễn Phùng Trớp và Nguyễn Sỹ Cò nhằm thành lập chi bộ Đảng. Thời gian này, Lê Cảnh Cải cũng được thầy Nguyễn Sỹ Cò giới thiệu vào tổ chức Đoàn Thanh niên thôn bộ Phong Nậm do đồng chí Lê Cảnh Nhượng phụ trách. Đoàn Thanh niên thôn bộ chịu sự chỉ đạo của Tổng bộ Thanh niên, với nhiệm vụ cổ động các cuộc đấu tranh, bảo vệ Nhân dân trong các cuộc biểu tình, vận động thanh niên trong làng tham gia đấu tranh.
Thực hiện kế hoạch kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1/5), Huyện ủy Thanh Chương chỉ đạo treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn trong toàn huyện. Nhận chỉ thị của cấp trên, Lê Cảnh Cải được giao nhiệm vụ vận động thanh niên trai tráng trong làng tham gia treo cờ lên các cây cao dọc hai bên đường trong làng. Từ sáng sớm ngày 01/5/1930, khắp các tổng trong huyện, Nhân dân tập trung về đình làng nghe diễn thuyết, sau đó kéo đi biểu tình.
Tiếp đó, ngày 1/6/1930, được sự vận động của các cơ sở đảng, đồng chí Lê Cảnh Cải cùng đoàn thanh niên thôn bộ Phong Nậm và Nhân dân các làng Phong Nậm, Nguyệt Bổng, Ngọc Sơn kéo về huyện lỵ đấu tranh đưa yêu sách đòi: “hoãn sưu thuế đến tháng 10; bỏ thuế hoa lợi, bỏ thuế tuần sương, bồi thường cho những người bị bắn chết ở Hạnh Lâm và những nơi khác; thả hết tù chính trị và những người bị bắt”.
Tháng 8/1930, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ: Phong Nậm, Nguyệt Bổng, Ngọc Sơn, Phúc Xá, quần chúng cách mạng kéo lên đập phá nhà tên Phó tổng Thịnh Toàn, lấy thóc chia cho Nhân dân. Tiếp đó, sáng ngày 1/9/1930, Lê Cảnh Cải cùng Nhân dân tổng Phong Nậm, Nguyệt Bổng hăng hái tham gia đấu tranh với quy mô lớn chưa từng có của huyện. Đoàn người từ tổng Cát Ngạn vượt sông Giăng, sông Trai xuống nhập với đoàn tổng Võ Liệt, đoàn tổng Xuân Lâm và Đại Đồng gặp nhau tập trung chật kín cả bến đò Nguyệt Bổng. Hoảng sợ trước khí thế của quần chúng, binh lính bắn vào đoàn biểu tình làm đồng chí Nguyễn Công Thường hy sinh và hai người khác bị thương.
Căm phẫn trước hành động của thực dân Pháp, quần chúng cách mạng xông lên đập phá huyện đường, phá nhà giam giải thoát tù chính trị, đốt nhà tri huyện Phan Sỹ Bàng. Hoảng sợ, tri huyện Phan Sỹ Bàng cùng nha lại, lính tráng bỏ chạy tháo thân. Chỉ trong một ngày, quần chúng cách mạng Thanh Chương đã phá tan chính quyền từ huyện, tổng đến xã. Cuộc biểu tình của hơn 2 vạn nông dân ở Thanh Chương kết thúc thắng lợi. Báo Công Luận của Pháp đưa tin: “vụ đánh phá huyện đường Thanh Chương, quân cách mạng tổ chức có kỷ cương, có binh luật”. Cuộc đấu tranh này đã đánh dấu sự ra đời đầu tiên của chính quyền Xô viết Nghệ Tĩnh.
Sau cuộc đấu tranh ngày 1/9/1930, đồng chí Lê Cảnh Tốn được triệu tập lên công tác ở Tổng bộ Xuân Lâm, đồng chí Lê Cảnh Cải được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ giữ chức Tổng bộ Thanh niên Phong Nậm. Từ đây, Lê Cảnh Cải tích cực vận động anh em trai tráng trong làng ngày đêm luyện tập, tìm cách vay lúa cứu đói cho bà con.
Đầu năm 1931, Thanh Chương xảy ra nạn đói lớn, trước tình hình đó, Huyện ủy chủ trương tịch thu và vay lúa của địa chủ để cứu đói cho Nhân dân. Ở tổng Xuân Lâm, đồng chí Phạm Tình, quê ở Nguyệt Bổng làm tổng chỉ huy, đồng chí Lê Cảnh Cải được phân công dẫn đầu đoàn thanh niên tự vệ Phong Nậm bảo vệ Nhân dân đi vay thóc. Từ mờ sáng, quần chúng cách mạng đã kéo về bao vây, canh gác xung quanh Nhà chung của Giáo xứ Tràng Đen. Linh mục không chịu hợp tác, quần chúng tràn vào phá kho thóc lấy chia cho Nhân dân. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của quần chúng.
Sau thời gian hoạt động tích cực trong Tổng bộ Thanh niên Phong Nậm, cuối tháng 3/1931, đồng chí Lê Cảnh Cải chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng và được giao nhiệm vụ làm giao thông liên lạc cho Ban Tài chính của Xứ ủy Trung Kỳ, do đồng chí Chắt Lũ [4] làm Trưởng Ban. Nhận nhiệm vụ mới, Lê Cảnh Cải không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, đã nhiều lần đưa tài liệu của Xứ ủy Trung kỳ từ Tràng Ri xuống Vinh trót lọt cũng như dẫn đường cho các đồng chí: Lê Cảnh Mười, Lê Cảnh Nhượng, Tôn Thị Quế, Chắt Lũ rút lên lèn Kim Nhan và Tràng Ri an toàn.
Tháng 2/1932, đồng chí Lê Cảnh Cải được giao nhiệm vụ dẫn đường cho đồng chí Chắt Lũ di chuyển từ Tràng Ri về Đồn Nhượng. Trong lúc đang nghỉ tại chùa Kẻ Trẹ (Hưng Nguyên), hai đồng chí đã bị thực dân Pháp vây bắt. Đồng chí Chắt Lũ bị bắn và hy sinh tại chỗ, đồng chí Lê Cảnh Cải bị bắt giải về giam tại nhà lao phủ Hưng Nguyên, sau đó chuyển xuống Nhà lao Vinh. Tại đây, thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn mua chuộc để đồng chí khai ra cơ sở đảng và tra hỏi thông tin về đồng chí Chắt Lũ, nhưng đồng chí một mực trả lời: “Tôi cha mẹ mất sớm không còn ai, phải đi xin ăn nên không biết người này là ai”. Khi không dụ dỗ và mua chuộc được đồng chí, bọn chúng đã dùng roi da bò đóng đinh quất thẳng vào người. Lần khác, chúng dùng kẹp bằng nứa kẹp 10 đầu ngón tay đồng chí đến tướt máu, dùng điện dí vào người,… Tại nhà lao Vinh, thực dân Pháp còn tìm cách giết chết người tù bằng ăn uống. Chúng cho các đồng chí ăn cơm nấu bằng gạo mục nát, đầy trấu và sạn, cá ươn đã có giòi, không có canh, nước uống, sinh hoạt không đủ dùng. Ốm đau không có thuốc men chữa trị,… vì vậy nhiều đồng chí hy sinh tại nhà lao Vinh do bệnh kiết lỵ.
Để chống lại chính sách tra tấn dã man và chế độ ăn uống kham khổ tại Nhà lao Vinh, đồng chí Lê Cảnh Cải đã cùng anh em tù chính trị biến nhà tù thành trường học cách mạng, đấu tranh chống lại ách cai tù khắc nghiệt bằng nhiều hình thức như: tuyệt thực, hô khẩu hiệu, reo hò buộc thực dân Pháp phải nhượng bộ.
Bị giam tại nhà lao Vinh gần một năm, thực dân Pháp đưa đồng chí Lê Cảnh Cải ra xét xử và kết án 3 năm tù khổ sai, đưa đi cải tạo tại nhà lao đồn Kim Nhan. Cuối năm 1934, khi Bảo Đại hồi loan, tù chính trị được ân xá, đồng chí Lê Cảnh Cải được tha về.
Trở về quê hương, đồng chí Lê Cảnh Cải nhanh chóng tìm cách bắt mối liên lạc với một số cán bộ, đảng viên mới được thả tự do như các đồng chí: Lê Cảnh Liệu, Hoàng Chính, Lê Cảnh Xoan,… và tìm cách nối lại đường dây liên lạc với Tổng ủy, Tỉnh ủy. Đến tháng 5/1935, đồng chí Phan Sỹ Cồng (Võ Liệt) đã bắt liên lạc được với đồng chí Lê Cảnh Cải lập lại Chi bộ Phong Nậm gồm có các đồng chí: Lê Cảnh Liễu, Hoàng Văn Liễn, Lê Cảnh Xoan, Lê Cảnh Cải, do đồng chí Lê Cảnh Cải làm Bí thư.
Tháng 7/1935, đồng chí Lê Cảnh Cải được đồng chí Chín giao cho bản Nghị quyết A1 của Huyện ủy Thanh Chương về công tác phát triển đảng viên và củng cố chi bộ tại cơ sở. Nhận được chỉ thị của cấp trên, đồng chí nhanh chóng triệu tập các đồng chí trong Chi bộ Phong Nậm triển khai nội dung của Nghị quyết, trong lúc họp, bất ngờ bị thực dân Pháp ập vào khám xét, cuộc họp bị lộ, cả 4 đồng chí bị bắt. Lần này, thực dân Pháp kết án đồng chí Lê Cảnh Cải 13 năm tù khổ sai tại nhà lao đồn Cửa Rào.
Nhà lao đồn Cửa Rào được xây trên đỉnh núi, từ chân núi lên đến đồn phải đi qua 120 cấp, chế độ ăn uống kham khổ, cơm không đủ no, làm việc ngày từ 10 đến 12 tiếng, lúc đi làm về mỗi người tù nhân phải gánh đất sét lên núi để đóng gạch xây đồn. Tại đây, đồng chí Lê Cảnh Cải tiếp tục kêu gọi anh em tù chính trị tuyệt thực buộc cải thiện chế độ ăn uống, giảm thời gian làm việc xuống 8 giờ mỗi ngày.
Bị giam ở đồn Cửa Rào hơn một năm thì Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền có chính sách ân xá cho tù chính trị, đồng chí Lê Cảnh Cải được đưa về Vinh hưởng chế độ an trí. Trong thời gian an trí tại Vinh, Lê Cảnh Cải tranh thủ dạy chữ quốc ngữ cho các bạn tù. Không có giấy bút để học, đồng chí đã dùng ngón tay để làm bút, dùng nước uống làm mực, dùng nền nhà làm giấy. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết, nên chỉ sau một thời gian ngắn, nhiều đồng chí đã đọc thông, viết thạo. Đến cuối năm 1939, đồng chí được tha về.
Vốn mang trong mình nhiệt huyết cách mạng, ngay khi trở về quê nhà được ít tháng, Lê Cảnh Cải cùng với đồng chí Mười, bắt mối với các đồng chí: Linh, Yến (Nguyệt Bổng), Chu (Xuân Trường), Ngoạn, Miễn (Kim Bảng), tìm cách gây dựng lại cơ sở cách mạng. Đến tháng 6/1940, Lê Cảnh Cải lại sa vào tay giặc lần thứ tư. Lần này, thực dân Pháp bắt Lê Cảnh Cải và đồng chí Lê Cảnh Mười giam ở nhà lao huyện Thanh Chương, đây là nơi cực kỳ ẩm thấp, bẩn thỉu, sàn ngủ của tù nhân được làm bằng cây tre để nguyên mắt chẻ đôi, dưới sàn là bùn lầy, hôi thối vô cùng. Hầu hết các tù nhân ở đây bị tra tấn, đánh đập rất dã man, các vết thương bị lở loét, ruồi nhặng bám đầy người. Đi vệ sinh không được ra ngoài, người ốm đau hay khỏe mạnh đều nằm chung trên sàn tre, thậm chí có người chết từ đầu hôm nằm chung với người sống đến ngày hôm sau mới được khiêng ra. Đồng chí Lê Cảnh Cải bị giam tại đây hơn một năm thì được tha về.
Trở về quê nhà, để tránh bị theo dõi và tìm lại tổ chức, đồng chí Lê Cảnh Cải đã học nghề nấu cao thuê để có cơ hội đi nơi này, nơi khác. Đầu năm 1943, trong một lần đi nấu cao thuê cho nhà ông Dương ở Vĩnh Giang, đồng chí biết tin đồng chí Trần Hữu Doánh [5] bị giam tại nhà tù Buôn Ma Thuột đã vượt ngục thành công và đang ẩn náu tại Vĩnh Giang, vì vậy đã tìm cách bắt liên lạc. Biết ông chủ Dương là người có lòng tốt với cách mạng, đồng chí Trần Hữu Doánh và Lê Cảnh Cải đã cảm hóa và thuyết phục ông Dương góp tiền mở lò làm ngói. Đồng chí Trần Hữu Doánh đóng vai ông chủ xưởng thường đứng ra tìm và thuê nhân công, đồng chí Lê Cảnh Cải chịu trách nhiệm đôn đốc và hướng dẫn công nhân làm việc. Nhờ công việc này, Lê Cảnh Cải và Trần Hữu Doánh có cơ hội gặp gỡ và tập hợp được những thanh niên yêu nước, hướng dẫn cho anh em cách thức vận động quần chúng, cách đánh du kích, cách xây dựng căn cứ địa chống Pháp, Nhật.
Bên cạnh đó, Lê Cảnh Cải còn tìm cách móc nối lại với một số tù chính trị trở lại hoạt động. Từ năm 1943-1944, bằng nhiều hình thức, tranh thủ mọi hoàn cảnh, đồng chí Lê Cảnh Cải cùng đồng chí Trần Hữu Doánh đã khôi phục, phát triển thêm các cơ sở quần chúng cách mạng ở Vĩnh Giang, Trà Ná,... Tháng 4/1945, đồng chí Trần Hữu Doánh hy sinh tại Truông Giong, cơ sở cách mạng bị lộ, đồng chí Lê Cảnh Cải trở về quê nhà.
Được một thời gian, đồng chí Lê Cảnh Cải được đồng chí Côn, quê ở Xuân Dương lên trao đổi công việc và giao nhiệm vụ liên lạc trong cho Tổng bộ Việt Minh tại Thanh Chương. Từ đây, đồng chí lại bắt tay vào nhiệm vụ mới cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Lê Cảnh Cải được huyện điều đi học quân sự lớp Hồng lam Quân chính và được phân công đi tập dân quân cho huyện đến ngày nghỉ hưu. Dù ở cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó.
Với nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Lê Cảnh Cải đã được Nhà nước tặng nhiều danh hiệu cao quý, như: Huân Chương Độc lập hạng Ba; Huy chương Kháng chiến hạng Nhì; Cán bộ hoạt động cách mạng trước năm 1935,… Đến năm 1973, do tuổi cao và di chứng của những trận đòn tra tấn trong nhà tù đế quốc, đồng chí đã từ trần tại quê nhà, hưởng thọ 62 tuổi.
------
Tài liệu tham khảo
- Lịch sử Đảng bộ huyện Thanh Chương (1930-1975), NXB Chính trị Quốc gia, 2005.
- Lịch sử Đảng bộ xã Ngọc Sơn (1969-2015), NXB Lao động, 2020.
- Hồi ký cách mạng của đồng chí Lê Cảnh Cải, lưu tại Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh.
- Lời kể của thân nhân gia đình đồng chí Lê Cảnh Cải.
[1] . Thầy Tốc tên thật là: Nguyễn Phùng Tốc, người làng Thượng Thọ (nay thuộc xã Xuân Trường)
[2]. Thầy giáo làng: Nguyễn Sỹ Cò (dạy học ở làng Xuân Dương) người làng Xuân Hương (nay thuộc xã Thanh Lương)
[3]. Võ Văn Đồng: đảng viên năm 1930.
[4] . Chắt Lũ: Bí danh của đồng chí Lê Xuân Đào (Lê Mạnh Thân), Bí thư Phủ ủy Hưng Nguyên đầu tiên; Trưởng Ban Tài chính Xứ ủy Trung kỳ năm 1931.
[5] . Đồng chí Trần Hữu Doánh (1906-1945), quê ở xã Cát Văn, huyện Thanh Chương. Bí thư Huyện ủy Thanh Chương năm 1391. Bị địch bắt giam 12 năm trong các nhà tù đế quốc: Nhà lao Vinh, Nhà tù Buôn Ma Thuột, Ngục ĐắkMin. Đến đầu năm 1943 cùng các đồng chí Chu Huệ, Trương Vân Lĩnh, Nguyễn Tạo vượt ngục thành công.