Giá lúa gạo hôm nay 15/11/2024: Giá gạo giảm nhẹ
Giá lúa gạo hôm nay 15/11/2024: Tại thị trường trong nước giá gạo giảm 100 đồng/kg. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam không có điều chỉnh so với ngày hôm qua
Giá lúa gạo trong nước
Hôm nay, giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng giảm nhẹ đối với một số loại gạo. Trên thị trường gạo, giá gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu giảm 100 đồng/kg so với ngày hôm qua, hiện còn 10.300 - 10.450 đồng/kg. Trong khi đó, giá gạo thành phẩm IR 504 vẫn ổn định, ở mức 12.300 - 12.500 đồng/kg.
Tại các địa phương như An Giang và Đồng Tháp, lượng gạo mua vào chậm. Tuy nhiên, giá gạo thơm tăng nhẹ, còn giá các loại gạo khác giữ ở mức ổn định.
Ở các chợ lẻ, giá các loại gạo không có sự thay đổi so với trước đó. Cụ thể, gạo Nàng Nhen hiện có giá cao nhất là 28.000 đồng/kg, trong khi giá gạo thường dao động từ 15.000 - 16.000 đồng/kg. Giá gạo thơm nằm trong khoảng 20.000 - 22.000 đồng/kg, gạo Jasmine từ 17.000 - 18.000 đồng/kg, và gạo Nàng Hoa là 21.500 đồng/kg. Các loại gạo đặc sản khác như thơm Thái hạt dài, Hương Lài, thơm Đài Loan, gạo Sóc, và gạo Nhật dao động từ 18.500 đến 22.000 đồng/kg.
Đối với thị trường lúa, giao dịch tại Đồng Tháp và Kiên Giang vẫn diễn ra bình ổn. Số lượng lúa khô được bán ra nhiều và nhu cầu mua ở mức ổn định. Theo Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay có sự điều chỉnh nhỏ. Lúa IR 50404 hiện có giá 7.400 - 7.500 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg, trong khi các loại khác như Đài Thơm 8, OM 5451, OM 18, OM 380, Nàng Hoa 9, lúa Nhật và Nàng Nhen (khô) dao động từ 6.800 đến 20.000 đồng/kg.
Về mặt hàng phụ phẩm, giá cả cũng dao động từ 6.050 - 9.400 đồng/kg. Hiện giá tấm OM 5451 ở mức 9.200 - 9.400 đồng/kg, còn giá cám khô dao động từ 6.050 - 6.150 đồng/kg.
Thị trường nếp không có sự điều chỉnh so với ngày hôm qua. Giá nếp Long An IR 4625 (tươi) hiện ở mức 7.800 - 7.900 đồng/kg, nếp Long An IR 4625 (khô) là 9.600 - 9.800 đồng/kg, và nếp Long An 3 tháng (khô) dao động từ 9.800 đến 10.000 đồng/kg.
Giá gạo thế giới
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn ổn định so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo 100% tấm hiện ở mức 423 USD/tấn, gạo tiêu chuẩn 5% tấm là 518 USD/tấn, và gạo 25% tấm là 488 USD/tấn.
Các chuyên gia dự báo rằng, với tốc độ xuất khẩu hiện tại và khả năng sản xuất trong nước, Việt Nam sẽ xuất khẩu trên 8 triệu tấn gạo trong năm nay, vượt kỷ lục của năm 2023.
Ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam và Chủ tịch Tập đoàn Intimex, nhận định rằng năm 2024 sẽ là năm Việt Nam xuất khẩu lượng gạo lớn nhất từ trước đến nay, với hơn 8 triệu tấn và tổng giá trị trên 5 tỷ USD. Giá xuất khẩu gạo bình quân có thể đạt mức cao nhất, trên 600 USD/tấn, giúp giá lúa gạo trong nước duy trì ở mức cao và ổn định.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 10 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu gần 7,8 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 4,86 tỷ USD, tăng 10,2% về khối lượng và 23,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Giá xuất khẩu gạo trung bình đạt trên 626 USD/tấn, tăng 12% so với năm ngoái.
Philippines tiếp tục là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 45% thị phần. Tính đến cuối tháng 10/2024, Philippines đã nhập khẩu 2,91 triệu tấn gạo từ Việt Nam. Các thị trường lớn tiếp theo bao gồm Indonesia và Malaysia. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu gạo sang Malaysia tăng gấp 2,3 lần, cao nhất trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Ông Đỗ Hà Nam dự báo giá lúa gạo có thể tiếp tục tăng vào cuối năm do nguồn cung trong nước bị hạn chế và ảnh hưởng của thời tiết bão lũ. Thị trường Philippines ưa chuộng gạo thơm của Việt Nam, và dù nguồn cung thế giới tăng nhờ Ấn Độ, loại gạo này khó thay thế trong phân khúc cao cấp.
Gần đây, doanh nghiệp Việt Nam đã trúng thầu 83.500 tấn gạo (chiếm 17%) trong gói thầu 500.000 tấn của Indonesia. Dù giá gạo Ấn Độ rẻ hơn, chất lượng không cao bằng gạo Việt Nam hay Thái Lan, nên tỷ lệ trúng thầu của Việt Nam vẫn khá cao.
Ông Đỗ Hà Nam chia sẻ rằng các doanh nghiệp Việt đã có nhiều hợp đồng lớn cho đến cuối năm, đặc biệt là lượng gạo xuất khẩu sang Indonesia, giúp giá gạo tiếp tục ổn định. Ông cũng nhấn mạnh: “Việt Nam đang tạo dựng ngành hàng lúa gạo khác biệt so với các nước, tập trung vào gạo thơm và gạo chất lượng cao, giảm dần sản lượng gạo cấp thấp, từ đó hình thành mặt bằng giá riêng biệt cho ngành hàng này.”