GS. Bác sĩ Tôn Thất Tùng, một nhân cách lớn
GS. Bác sĩ Tôn Thất Tùng sinh ngày 10- 5-1912, và lớn lên tại Huế, một miền đất với truyền thống hiếu học. Từ chối việc học để làm quan, người thanh niên Tôn Thất Tùng đã học Trường Bưởi và lựa chọn ngành Y mà theo ông, là nghề "tự do" không phụ thuộc vào quan lại hay chính quyền thực dân.
Trong thời gian học tại trường y, cũng như suốt thời gian nội trú tại Bệnh viện Phủ Doãn và sau đó là quá trình tham gia cách mạng. Dù ởđâu, trên cương vị công tác nào, GS. Tôn Thất Tùng cũng để lại dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí nhân dân cũng như toàn thể ngành Y tế Việt Nam.
Trước Cách mạng, cảĐông Dương chỉ có một trường thuốc duy nhất tại Hà Nội, mà người bản xứ không được dự các kỳ thi "nội trú", GS. Tùng là người đầu tiên đấu tranh bắt buộc chính quyền thực dân phải tổ chức thi nội trú cho các bệnh viện Hà Nội. Ông đã sớm say mê nghiên cứu khoa học y học, với mong muốn đưa nền Y học Việt Nam sánh ngang với các nước trên thế giới.
GS. Tôn Thất Tùng (Người mặc complê bên trái) hướng dẫn Bác Hồ thăm Bệnh viện Việt - Đức sau ngày Hà Nội giải phóng (1954). Ảnh: A.V (Internet) |
Cuộc đời ông là một điển hình của người trí thức Việt Nam sớm hăng say lao động khoa học, được cách mạng giác ngộ. Nói đến ông, phải nghĩđến một người thầy, một nhà khoa học chân chính. Trong kháng chiến chống Pháp, cùng với những cán bộ y tế, các thầy và các sinh viên trường y, ông đã tận tình cứu chữa thương bệnh binh, vừa xây dựng các tuyến mổ xẻ nhưở mặt trận Tây Nam Hà Nội cùng BS.Nguyễn Hữu Trí, BS. Hoàng Đình Cầu..., vừa đào tạo các sinh viên.
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, di chuyển nhiều lần, ở nhiều địa bàn như Ngòi Quãng, Chiêm Hóa, chiến khu Việt Bắc... Ởđâu ông cũng gắn điều trị với nghiên cứu khoa học, với đào tạo sinh viên, phát triển ngành y tế. Ông là một trong những người đầu tiên xây dựng trường y ngay từ sau Cách mạng tháng Tám.
Trở về từ chiến khu Việt Bắc, ông đã cùng những học trò của mình xây dựng lại Bệnh viện Việt- Đức, trung tâm ngoại khoa lớn nhất miền Bắc. Được Nhà nước cử giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt- Đức, ông luôn dành tâm sức cho sự nghiệp đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, phát triển ngành Y tế Việt Nam.
GS. Tôn Thất Tùng là một tấm gương về tinh thần lao động khoa học miệt mài, lòng yêu thương bệnh nhân.Trong khi học tập tại Trường Đại học Y, ông đã sớm say mê khoa học.
Trong khoảng thời gian từ năm 1935-1939, ông miệt mài phẫu tích trên 200 lá gan, đã có một công trình về cách phân chia mạch máu trong gan, được đánh giá cao và được gửi về Viện Hàn lâm Pháp thời đó. Cũng trong thời gian chiến tranh khốc liệt, nhiều công trình nghiên cứu của ông được thai nghén và tiến hành, tổng kết các kinh nghiệm bệnh tật của riêng người Việt Nam, của đồng bào các dân tộc. Cùng với GS. Đặng Văn Ngữ, ông đã góp phần sản xuất penicilline phục vụ thương bệnh binh trong chiến tranh chống Pháp.
Gia đình ông có 5 người, thì 4 người chọn nghề y mà trong đó điển hình là GS. Tôn Thất Bách, con trai ông, Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội. GS. Tôn Thất Tùng mất ngày 7-5- 1982, để lại cho các thế hệ thầy thuốc Việt Nam niềm tiếc thương và những bài học vô cùng quý giá!
GS. Tôn Thất Tùng là một nhà khoa học chân chính với tinh thần lao động khoa học hăng say, miệt mài. Trong cuộc đời mình, giáo sưđã để lại 123 công trình khoa học, đặc biệt là một trong những nhà khoa học đầu tiên xây dựng phương pháp mổ gan mang tên ông.
Ông cũng là người đầu tiên mổ tim ở Việt Nam năm 1958, là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu tác hại của chất độc hóa học dioxin đến con người và môi trường tại Việt Nam, phương pháp điều trị ung thư gan bằng phẫu thuật kết hợp dùng miễn dịch và rất nhiều công trình khoa học khác. Giáo sư luôn coi trọng việc tiếp thụ Y học phương Tây để xây dựng và phát triển nền Y học của Việt Nam, nghiên cứu bệnh tật và chữa trị cho người Việt Nam, đi đầu trong việc áp dụng các kỹ thuật phát triển ngành ngoại khoa Việt Nam.
Là một thầy thuốc chân chính, ông luôn đòi hỏi mọi người làm việc trungthực, thương yêu người bệnh, ông luôn sΩn sàng giúp đỡ bệnh nhân, các bác sĩ, y sĩ, kỹ thuật viên, sinh viên. Mặc dù luôn bận rộn nhưng ông rất quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của bệnh viện. Gần 30 năm làm giám đốc bệnh viện, ông đã có công lao to lớn xây dựng lề lối làm việc trong khám bệnh, mổ xẻ, chăm sóc bệnh nhân.
Ông còn hết lòng đào tạo các thế hệ sinh viên ngành Y. Từ năm 1947, cùng với GS. HồĐắc Di, ông đã bắt tay xây dựng Trường Đại học Y Hà Nội và gắn hơn nửa cuộc đời mình với công tác đào tạo. Các cán bộ y tếđã có thời gian học tập, thực tập tại trường và bệnh viện Việt Đức đều nhớ tới ông với những buổi giao ban sống động, với những bài giảng nghiêm khắc, bổ ích.
Làm việc tại bộ môn Ngoại của Đại học Y, ông đã đào tạo nhiều thế hệ học tròtrưởng thành như GS. Tôn Thất Bách, GS. Đặng Hanh Đệ, GS. Đỗ Kim Sơn, GS. ĐỗĐức Vân... Những quan điểm "học và hành thống nhất" của ông cho đến giờ vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt hơn, ông còn luôn quan tâm đến cảđời sống của sinh viên mà ông cho là "những người thiệt thòi nhất".
Được Đảng, Bác Hồ sớm giác ngộ, giáo dục, ông là tấm gương của tinh thần tranh đấu không mệt mỏi, đấu tranh cho sự bình đẳng của sinh viên Y khoa Việt Nam khi còn trong chếđộ thực dân Pháp cai trị; kiên cường phục vụ nhân dân, phục vụ bộđội qua các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc; kiên trì tranh đấu cho phong trào bảo vệ quyền con người bằng những nỗ lực nghiên cứu về tác hại của hóa chất diệt cỏ, chất độc màu da cam (chứa dioxin), là người có công lớn trong việc thành lập và điều hành Ủy ban Quốc gia điều tra về hậu quả chiến tranh hóa học ở Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời mình, Giáo sưđã vinh dựđược Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giáo dục, tin tưởng, giao nhiệm vụ vớitình cảm chân thật, gần gũi. Cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp phát triển nền Y học nước nhà, Giải thưởng Hồ Chí Minh mà Nhà nước trao tặng cho ông là sự ghi nhận của Tổ quốc với một người thầy thuốc cao quý!
Phạm Xuân Lâm